Vịnh Hai Bà Trưng
của Dương Bá Trạc

              I

Nước nhà gặp cơn bĩ,
Trách-nhiệm gái trai chung;
Quyết lo đền nợ nước,
Há những vị thù chồng[1].
Tham-tàn căm tướng « Chệch »,
Tai mắt tủi nòi Hồng.
Em ơi đứng cùng chị;
Thù riêng mà nghĩa công.
Xin đem phận bồ liễu,
Đành liều với non sông.
Một trận đuổi Tô-Định,
Quân Tàu đuôi chạy cong.
Lĩnh-nam bảy mươi quận[2],
Mặc sức ta vẫy vùng.
Mê-linh[3] dựng nghiệp đế,
Độc lập nên cờ hồng.
Bốn năm nước tự chủ;
Nhi-nữ cũng anh-hùng.

              II

Cấp nạn em cùng chị,
Anh hùng gái giống cha.
Quyết lo đền nợ nước
Chẳng những vị thù nhà.
Voi Triệu đem đường tiến,
Cờ Đinh mở lối ra.
Cõi Nam nền độc lập,
Muôn thuở tiếng hai bà.

   




Chú thích

  1. Chồng bà Trưng-Trắc là Thi-Sách bị quan Tàu là Tô-Định giết.
  2. Hai bà đánh đuổi quân Tàu lấy được hơn bảy mươi thành ở đất Lĩnh-nam.
  3. Bà Trưng đuổi được quân Tàu về, xưng vương tự lập, đóng đô ở Mê-linh (nay thuộc huyện Yên-lãng tỉnh Phúc-yên).