Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch

Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch - 永州柳子厚故宅
của Nguyễn Du

Liễu Tử Hậu: tức Liễu Tông Nguyên 柳宗元 (773-819), tự là Tử Hậu 子厚, người đất Hà Đông 河東 (nay thuộc tỉnh Sơn Tây 山西). Từng làm thứ sử Liễu Châu 柳州 (nay là Quảng Tây 廣西), đỗ tiến sĩ năm 21 tuổi, nổi tiếng tài hoa. Làm quan, chủ trương cải cách chế độ, chống tham ô nên bị đày đi xa như ở Vĩnh Châu 永州 (nay thuộc Hồ Nam 湖南).

Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

衡嶺浮雲瀟水波
柳州故宅此非耶
一身斥逐六千里
千古文章八大家
血指汗顏誠苦矣
清溪嘉木奈愚何
壯年我亦為材者
白髮秋風空自嗟

Hành lĩnh phù vân Tiêu thủy ba,
Liễu châu cố trạch thử phi gia?
Nhất thân xích trục lục thiên lý,
Thiên cổ văn chương bát đại gia[1].
Huyết chỉ hãn nhan thành khổ hĩ[2],
Thanh khê gia mộc[3] nại ngu hà.
Tráng niên ngã diệc vi tài giả,
Bạch phát thu phong không tự ta!

Trên núi Hành Lĩnh mây nổi, sông Tiêu sóng gợn
Nơi đây có phải nhà cũ của thứ sử Liễu Châu?
Một thân bị đày ải nơi xa sáu ngàn dặm
Văn chương nghìn thuở, là một trong tám nhà văn thơ lớn bậc nhất
(Thợ vụng) tay bầm, mặt đổ mồ hôi, coi thật là khốn khổ
(Người tài như) khe trong, cây tốt, lại chịu tiếng ngu
Thời trai trẻ, ta cũng có tài ví như gỗ tốt
Nay bạc đầu, tự mình than vãn trước gió thu

   




Chú thích

  1. Bát đại gia: Tám nhà văn chương lỗi lạc: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tăng Củng, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt
  2. Trong bài Tế Liễu Tử Hậu văn Hàn Dũ viết: "Ví như người thợ vụng, tay bầm máu, mặt đổ mồ hôi, còn ông thợ khéo thì đứng khoanh tay. Văn chương ông Liễu không được dùng, còn bọn nịnh thần được thảo chiếu, chế của nhà vua!"
  3. Trong Bài tựa tám bài thơ Ngu khê Liễu Tông Nguyên viết: "Cây tốt, đá lạ do hóa công bố trí, đều là những kỳ diệu của sơn thủy, chỉ vì tôi mà lụy, mang cái tên Ngu" (Gia mộc, dị thạch bố trí, giai sơn thủy chi kỳ giả, dĩ dư cố, hàm dĩ ngu nhục yên 嘉木異石錯置,皆山水之奇者,以余故,咸以愚辱焉)