Tuồng Joseph
TUỒNG JOSEPH
JOSEPH
TRAGÉDIE TIRÉE DE L’HISTOIRE SAINTE
PAR
TRƯƠNG-MINH-KÝ
REPRÉSENTÉE A CHOLON POUR LA PREMIÈRE FOIS
LE 13 JUILLET 1887
SAIGON
BẢN IN NHÀ HÀNG REY ET CURIOL
1888
VAI TUỒNG.
Jacob, cha Joseph. | ||
Lia, vợ lớn ông Jacob. | ||
Rachel, vợ nhỏ ông Jacob (mất rồi). | ||
Zelpha, hầu bà Lia. | ||
Bala, hầu bà Rachel. | ||
Ruben (1) | con trai | bà Lia. |
Siméon (2) | » | » |
Lévi (3) | » | » |
Juda (4) | » | » |
Issachar (9) | » | » |
Zabulon (10) | » | » |
Dina (11) con gái bà Lia (mất rồi). | ||
Joseph (12) | con trai | bà Rachel. |
Benjamin (13) | » | » |
Gad (7) | con trai | bà Zelpha. |
Azer (8) | » | » |
Dan (5) | con trai | bà Bala. |
Nepthali (6) | » | » |
1 Phong điều vỏ thuận,
Quốc thới dân an,
Trong vẻo nước sông vàng,
Lặng trang trời biển đỏ.
5 Joseph là tên mổ,
Quê quán ở Chanaan,[2]
Như tôi, thung dung rèn tới bục tài năng,
Kềm thúc luyện theo đàng nhơn đức,
Thỉ chung một mực,
10 Trong hiếu hai đàng,
Hà! nghĩ cha già mừng được còn an.
Nhớ mẹ yếu thảm thương sóm mất.
Chừ cũng đà khuya rồi phải vào mà nghỉ.
(Chiêm bao thấy anh em gặt hái ngoài đồng, thấy mặt trời mặt trăng, ngôi sao v.v.)
HỰU VIẾT:
Nằm ngủ thẳng cho một giấc,
Chiêm bao chợc thấy hai điềm,
15 Rạng mai thưa lại gia nghiêm,
Đến sáng chường cùng huinh trưởng.
VÃN VIẾT:
Đến sáng chường cùng huinh trưởng,
Đặng cho tường việc trượng việc khinh,
Chiêm bao điềm ứng thình lình,
20 Riêng bàn đâu hản thần nh tỏ bày,
Mãn còn chuyển vẩn hiên tây,
Xây quanh rạng sáng, lày quày hừng đông.
JACOB VIẾT
Mùa khô trồng trỉa ngoài đồng,
Mưa xuống cày bừa làm ruộng,
25 Lạc nghiệp thú xưa yêu chuộng,
An cư quê cũ mến ua,
Ấm no thường tám tuyết bốn mùa,
Giữ gìn vẹn muôn đời một đạo,
Jacob là tên lảo,
30 Trăm ba ấy tuổi già,
Con gái trai tính đặng mười ba.
Vợ lớn bé kể ra chẳn bốn,
TÁN VIẾT:
(Nói với bà Lia) Mụ ôi! Nghỉ thuở tôi làm rể cũng cực khô lắm: mụ à!
Của thì không tốn,
Công thiệt có lao,
35 Một tay mình gặt hái lao đao,
Bảy năm chẳn cày bừa khổ sở,
Muốn cưới Rachel làm vợ,
Mụ là chị lại chưa chồng. Cho nên ông già ổng mới nói:
Bảy năm trường chẳng lẽ về không,
40 Một gái lớn đưa theo cho có,
Đây từng coi sách vở,
Đó cũng biết thơ tuồng,
Cớ đâu, chị thì chưa gả lấy chồng,
Mà, em lại đã ra làm vợ,
45 Mới cho mụ đi theo cùng mổ,
Về với già đẻ được bốn con:
Ruben với Siméon,
Lévi, Juda con thứ. Mà ý mần răn không biềt, tôi cũng cứ tôi thương Rachel hoài:
Duyên không trả, đòi là thiệt nợ,
50 Nợ chẳng đòi, trả thiệt là duyên,
Cho hay phú quí tại thiên,
Còn nhơn duyên do nguyệt lảo. Ông già ổng thấy vậy ổng mới biểu tôi:
Bảy năm nữa ở cho trọn thảo,
Rachel kia rồi sẽ vầy duyên. Bõi vậy cho nên:
55 Cực bề nào cam chịu chẳng phiền,
Khổ cho mấy đành ưng không sợ,
Xin cho hai vợ,
Lại có vài hầu,
Bala đây là hầu Rachel đẻ được thằng Dan, thằng Nepthali, còn Zelpha đây là hầu mụ đẻ được thằng Gad, thằng Azer.— Mụ lại đẻ thêm thằng Issachar, thằng Zabulon với con Dina.
Cách đó một ít lâu,
60 Thì Rachel nằm bếp,
Bèn đẻ ra Joseph,
Sau kế Benjamin.
Đó rồi mới, xán bịnh đau bỏ uống bỏ ăn,
Lo hết sức chạy thầy chạy thuốc,
65 Chung cuộc mụ đà đi trước,
Mãn phần lảo sẽ về sau.
LIA VIẾT:
Ông nhớ con em tôi, ông nhắc nó, làm cho tôi phát thương phát tiếc:
Em mụ ở đâu,
Người ta mến đó,
Kính vì thì có,
70 Ghen ghét vốn không,
Theo chìu chị một chồng,
Không phiền ông nhiều vợ,
Thấy nghèo khó thì hay giúp đở.
Đến giàu sang không chịu a dua,
75 Ở đời lòng khéo nhịn thua,
Có việc bụng hay chịu thiệt,
Nghe lời bậy tai như kẻ điết,
Thấy vật kì mắt tợ người mù,
Nhơn từ quá kẻ đi tu,
80 Đức hạnh hơn người có đạo,
Đã ngay lại thảo,
Trọn trước vẹn sau.
HỰU VIẾT:
Mác nói chuyện với ông, mà trời sáng không hay,
Cha mẹ già thức dậy đã lâu,
Các con trẻ đi đâu vắng bặc? vậy kìa,
CHÚNG TỬ VIẾT:
85 Dạ dám thưa cha: Các con ra chường mặt,
Hầu cha dạy phép lòng,
Giất nồng chẳng biết yên không,
Thấy mặt mới là phỉ dạ, cho mo.
JOSEPH VIẾT:
Dám thưa cha cùng các anh: Ban đêm thấy điềm kia lạ quá,
90 Tảng sáng bàn sự ấy sợ hung,
Thấy anh em gặt hái ngoài đồng,
Còn cha đứng trông nơi trước cửa,
Bó lúa con dựng lên chính giữa,
Của các anh nằm xuống chung quanh. Rồi cái vía con lại thầy:
95 Mười một vì tinh tú vận hành,
Cùng mặt trời mặt trăng luân chuyển,
Nghe tiếng con thì đà khiếp diện,
Thấy dạng hình thôi lại kinh tâm,
Phụ tử tình thâm,
100 Đệ huinh ngãi trọng,
Nên con phải, thưa ra cho chóng,
Chẳng dám di tri.
JACOB VIẾT:
Con! con còn nhỏ dại, con buông lời xúc phạm các anh con đó:
Con khờ vụt nói chẳng suy,
Trẻ dại buông lời không nghỉ,
105 Chiêm bao mộng mị,
Điềm ứng mật mờ,
Rún biển sâu khôn lẽ tay dò,
Lòng trời kín khó cho mắt thấu,
Sự tiền định sự kia dể lậu,
110 Việc hậu lai việc ấy khó thông.
HỰU VIẾT:
Các con: chừ trời đã hừng đông,
Vậy nên phải, đem chiên lên hướng bắc,
Cho ăn uống lùa trong chỗ chắc,
Có thả ra cũng nội nơi đồng,
115 Dặm dài con trẻ thẳng xông,
Nhà vắng cha già ở lại.
VÃN VIẾT:
Nhà vắng cha già ở lại,
Vái trời cho con cái bình an,
Con đi cha ở hai đàng,
120 Cuộc đời cay đắng gian nan nhiều bề. (Joseph, Benjamin ở lại với ông Jacob).
RUBEN VIẾT:
Chừ cha đà quày gót trở về,
Âu ta kíp thanh sơn trực khứ.
VÃN VIẾT:
Ta kíp thanh sơn trực khứ,
Ngõ lo bề chăn giữ bầy chiên,
125 Con em cả thảy đặng hiền,
Đàng anh đẹp dạ bề trên vui lòng.
SIMÉON VÃN VIẾT:
Buồn vì cha ở chẳng công,
Thương thằng Joseph ẳm bồng trên tay.
LÉVI VÃN VIẾT:
Cha già lúc tỉnh lúc say,
130 Làm cho em út không hay khiêm nhường.
JUDA VÃN VIẾT:
Đất hay sanh cỏ là thường,
Tuổi già sanh tật biết phương nào trừ.
DAN VỚI NEPTHALI VÃN VIẾT:
Trời công đâu có lý tư,
Trên hay thương xuống trẻ khờ biết chi.
GAD VỚI AZER VĂN VIẾT:
135 Anh em không lẽ phân bì,
Lo nuôi cha mẹ quản gì đến thân.
ISSACHAR VỚI ZABULON VÃN VIẾT:
Những là trò chuyện dần lân,
Phút đâu ngó thấy mình gần non xanh.
JACOB VIẾT:
Chạnh niềm tây chẳng biết dữ lành,
140 Ngùi mặt bắc luống trông tin tức,
Joseph! con tua chịu cực,
Lòng chớ có buồn,
Muốn biết chừng mau khá dời chơn,
Đi thăm thử đặng cho hản dạ,
145 Trên núi non trẻ vương chi lạ. Cho nên mới khiến,
Trong lòng già áy náy cũng kỳ,
Thời anh em mười đứa ra đi,
Sao không thấy một thằng trở lại,
Cho tường lợi hại,
150 Ngỏ khỏi hồ nghi.
JOSEPH VIẾT:
Dạ! vưng lời, con trẻ ra đi,
Từ giả cha già ở lại.
VÃN VIẾT:
Từ giả cha già ở lại,
Đất trời đâu nở hại người ngay,
155 Phải chi đi đặng như bay,
Cho mau mau tới, cho hay hay rồi,
Và đi và chạy một hồi,
Đau chơn ngồi lại, lại ngồi chơn đau.
HỰU VIẾT:
Chừ thôi thời, gượng bước tới cho mau,
160 Rán chạy lia như chóng,
Uý-a! ngó ngoái sau lưng đồng rộng,
Xem ngay trước mặt non xanh.
LOẠN VIẾT:
Non xanh cùng khắp chạy tìm anh,
Chẳng nại đàng xà khúc quẹo quanh,
165 Miễn được vui lòng đền ngãi trọng,
Ngày sau ắt có phước trời dành.
RUBEN VIẾT:
Nơi triền núi vắng tanh,
Chỗ đàng truông quạnh quẻ, Thời, từ lên đây cho tới nay:
Anh em mạnh thấy đều sức khoẻ,
170 Cha ở nhà cũng được bình an.
SIMÉON, LÉVI, ĐỒNG VIẾT:
Uá nầy! xa xem coi giống dạng chú chàng,
Gần ngó thấy quả hình Joseph,
Chớ trách ta lượng hẹp,
Cũng tại đó chí cao. Bộ nó đi thất thơ thất thưởng, có khi nó chiêm bao, nó thấy ta lạy nó phải chơi gì.
175 Bộ mơ màng chú nghĩ chiêm bao,
Tướng thơ thẩn chàng va thấy chết,
Đàng bụi đỏ đi đà mỏi mệt,
Chốn suối vàng cho nó nghĩ ngơi.
RUBEN VIẾT:
Bay cừu hềm nói chẳng liệu lời,
180 Nó em út giết sao cho đáng,
JOSEPH VIẾT:
Ôi anh ôi! chuyện chi chưa hản,
Xin nói cho tường,
Cúi xinh anh cả lòng thương,
Trăm lạy thày đều bụng tưởng.
LÉVI VIẾT:
185 Giết đặng rồi đời vính cướng,
Làm cho hết kíp kỳ cào. (Lévi, Juda chạy lại, kẻ lột áo, người đâm Joseph v. v.)
JOSEPH VIẾT:
(Ruben đứng dẹp lại mà nói, còn Siméon, Lévi, Juda và đánh và trói Joseph).
Ôi trời! hởi trời! thấy mấy anh chưa kịp hỏi chào,
Kế bị giết tội chi không rõ.
RUBEN VIẾT:
Khoan giết nó! khoan giết nó!
190 Phẩi nghe anh! phẩi nghe anh!
Tội kiêu căn tội ấy đã đành,
Nhưng mà, tình cốt nhục tình kia nên thứ,
Để cho anh xử,
Chớ khá làm ngang,
195 Tuy lòng bay chẳng tưởng chẳng màn,
Chớ dạ mổ cúng ngao cũng ngán,
Chừ thôi thời, trói nó quăn vào giếng cạn,
Có phải khỏi, tay mình làm đứt tay mình chăng! (Nói riêng một mình).
Thấy dữ dần ai chẳng thất kinh,
200 Nghĩ thương hại lo phương giúp đở.
Để đi hết cứu lên khỏi đó,
Chừ hãy còn phải chịu phép đây. Thời sách có chữ rằng: mảnh hổ bất năng địch quần hổ, nó hùa với nhau, mà tôi biết mần mần răn cho lại.
SIMÉON, LÉVI, JUDA ĐỒNG VIẾT;
Trói rồi ta phải ra tay,
Rinh nó đặng quăn vào giếng.
JOSEPH VIẾT:
205 (Ở dưới giếng cạn). Thương hại é! nói lên day vả miệng,
Quăn xuống đụng lổ đầu,
Nghĩ thôi dể ngớt cơn sầu,
Tưởng tới khôn cùng đoạn thảm.
THÁN VIẾT:
Trời cao thẳm thẳm,
210 Đất rộng minh minh!
Chẳng hay mổ hiếu trong ghi dạ,
Đâu biết tôi khiêm nhượng hết tình!
Chính giữa non xanh,
Trời thấy mấy anh làm việc dữ!
215 Chung quanh thú lạ,
Ai đem tin tức thấu cha lành!
HỰU VIẾT:
Thời nguời lành được phước đành rành,
Sao đứa dữ đem lòng thầng cự,
Thác đặng trọn niềm hiếu tử,
220 Sống lo vẹn nghĩa từ thân,
Mắc phải đây bỡi tại mau chân,
Rủi ro ấy cũng vì nhạy miệng,
Chiêm bao kia khiến,
Số hệ nọ xui,
225 Nhớ cha già lụy nhỏ sụt sùi,
Tưởng anh cả chân roi đòi trận,
Thời sức chó cắn lộn thấy còn phát giận,
Mình hại nhau sao lại đi đành!
RUBEN VIÊT:
(Ruben bỏ Siméon, Juda ở lại chỗ giếng, mà đuổi chiên đi một mình v. v.)
Chừ ta phải mau chơn bước tránh.
230 Đặng cho, chúng nó vầy nối gót đi theo,
Đuổi chiên lùa thẳng qua đèo,
Rồi sẽ, lập thế giải tha Joseph.
VÃN VIẾT:
Lập thế giải tha Joseph,
Ra khỏi vòng chật hẹp ấy thôi,
235 Nghe than bức tức bồi hồi,
Làm sao cứu đặng mới ngồi được an,
Mãn còn lo sợ mọi đàng,
Không hay đã tới đã sang đèo rồi.
SIMÉON VIẾT:
(Day lại thấy Ruben lùa chiên đi đã xa rồi).
Lẩn bẩn đây kẻ đứng người ngồi,
240 Dong ruỗi đó anh lùa chiên chạy. Vậy thời mấy ta phải,
Mau chơn qua bên ấy,
Nhẹ gót lánh chốn nầy.
LÉVI VIẾT:
(Ngó thấy mấy người buôn bán đi ngang qua đó).
Uý lạ nầy! Ai ở đâu đi kéo cả bầy,
Tưởng có lẽ là ăn cướp cạn.
JUDA VIẾT:
245 Xem qua thấy giống người buôn bán,
Ngó lại coi hản kẻ bộ hành. Tôi tính đem thằng Joseph mà bán cho họ thì hay hơn.
Lòng ta ai nấy như đành,
Dạ họ có người cũng chịu,
Bán Joseph mặc đây định liệu,
250 Lấy bạc tiền rồi hảy chia nhau.
SIMÉON, LÉVI ĐỒNG VIẾT:
Vậy thì, kêu họ lại mau mau,
Kéo nó lên lẹ lẹ, (Chạy đem Joseph lên).
JUDA VIẾT.
Bớ các chú kia, tôi có đứa em tuổi trẻ,
Ai mua thì bán rẽ cho.
THƯƠNG NHƠN VIẾT:
255 Cái thằng coi bộ buồn xo,
Chú nghĩ ra tuồng hư đọa. Vậy chớ chú bán mầy?
JUDA VIẾT:
Mặc lòng chú trả,
Chẳng đợi tôi đòi; Trả phải giá thì tôi bán cho thê!
THƯƠNG NHƠN VIẾT:
Hai mươi đồng bạc tốt đó coi,
260 Trả một tiếng lời xin khá nói. Vậy có ưng bán hay không?
JUDA VIẾT:
Thằng em tôi là thằng giỏi,
Cực chẳng đã mới bán đi. Thôi chú ở đó với nó, tôi đi đây một chút!
JOSEPH VIẾT:
Nhìn các anh dạ mổ sầu bi,
Nhớ cha yếu lòng tôi thảm thiết.
VÃN VIẾT;
265 Thảm thiết thương cha già yếu,
Biết bao chừ báo hiếu được vay!
Hễ là con thảo tôi ngay,
Lâm chưng hung dữ, gặp tay hiền lành.
THƯƠNG NHƠN VIẾT:
Cái nghề buôn bán phải trề nhún đặng mà mua cho rẽ chớ!
Coi thằng nầy ăn nói khôn lanh,
270 Đến chợ nọ bán buôn đắc lợi,
Thời nền phú hậu thích tình xông tới,
Còn bực tài danh tùy ý tháo lui,
Như tôi là, việc bán buôn nói ngược ra xuôi,
Bề tính toán cọng đi trừ lại.
VÃN VIẾT:
275 Trừ lại thử coi lời lổ,
May gặp chầu nhờ tổ giàu to.
Bán buôn thì phải so đo,
Kéo cưa quan tám, dặt dò quan tư,
Mãn lo tiền thiếu bạc dư,
280 Phút đâu lố thấy kinh sư hầu gần.
RUBEN VIẾT:
Mấy em đi quá đổi chậm chân,
Để anh đợi cũng đà xót dạ,
Nước uống đựng b ng chén đá,
Đồ ăn để tại thúng mây,
285 Trên che đã có tàng cây,
Dưới trãi sẳn sàng nệm cỏ. Ngồi lại mà ăn, anh đợi mấy em dám đói lủi đi đó.
CHƯ ĐỆ VIẾT:
Số là anh chưa rõ,
Em nói lại cho tường,
Khi anh dời gót lên đường,
290 Phút có thương nhơn đi tới,
Các em kêu họ lợi,
Bắt Joseph bán đi.
RUBEN VIẾT:
Ôi thôi! Cha già hay đặng còn gì,
Phiền nảo ắt là sanh bịnh,
295 Dầu em dại buông lời thất kỉnh,
Thi bây khôn cũng phải rộng dong,
Có đâu đành dạ đành lòng,
Sau nở cắt gan cắt ruột.
JUDA VIẾT:
Thôi thôi! không hề gì đâu mà hòng ngại. Đã bày mưu trước,
300 Phải lập kế sau,
Số dầu chia chưa mất đi đâu,
Vận xui vậy rồi còn gặp đó. Chừ tôi tính mần răng:
Lấy máu chiên rơi vào áo nó,
Dối lời rằng về thấy dọc đường,
305 Có phải, Một tin thú dữ nhai xương,
Hai tưởng loài hung ăn thịt.
CHƯ ĐỆ VIẾT:
Mưu quỉ thiệt, mưu quỉ thiệt!
Kế thần hay, kế thần hay!
Nhỏ dại có người bày,
310 Lớn khôn nhờ kẻ biểu.
HỰU VIẾT:
Ăn đồ nọ coi đà thốn thiếu,
Trú non nầy nghĩ cũng lâu rồi,
Anh em ta sắm sửa phản hồi,
Kẻo, cha già cả ngày đêm trông đợi.
VÃN VIẾT:
315 Trông đợi trở về thấy mặt,
Phỉ tấm lòng cha rất thương con,
Chúc cho cha sống như non,
Cháu dường tinh tú hãy còn thấy ông,
Người đời chẳng khác ngọn sông,
320 Khi qua thiềng thị, lúc vòng rừng non,
Rồi ra kẻ mất người còn,
Mất còn còn mất, quay tròn tròn quay.
HỰU VIẾT:
Đi một hồi bóng ác về tây,
Âu ta kiếp mau chơn lẹ gót.
LOẠN VIẾT:
325 Mau chơn lẹ gót chạy như bay,
Tới chỗ quê nhà khỏi chỗ nầy,
Ăn uống nghĩ ngơi vui phận trẻ,
Tỏ bày tự sự đặng cha hay.
JACOB VIẾT:
Nhờ ơn trên no ấm hằng ngày,
330 Cậy sức dưới an vui mọi bữa,
Đông tới lúa đà sẳn chứa,
Hạ sang giống vốn có trồng,
Đắp đổi thường xuân hạ thâu đông,
Chống chỏi đủ đông tây nam bắc.
HỰU VIẾT:
Mụ ôi! mấy đứa con nó đi lâu về, tôi bắt nhớ lắm mụ!
335 Con đi vắng mặt,
Cha bắt buồn lòng,
Benjamin tuổi hãy trẻ trong,
Còn Joseph ấy thì nhỏ dại. Từ sai nó đi cho tới nay,
Sao lòng hằng nghi ngại,
340 Dạ vẫn sầu bi,
Có khi nó mắc việc chi,
Nên khiến dạ thêm hồi hộp.
CHÚNG TỬ VIẾT:
Dạ dám thưa cha. Con về tới gần nơi hang cọp,
Thấy một manh áo trắng còn đây. Chẳng hay hai đứa em ở nhà nó có đi đâu không?
JACOB VIẾT:
(Nhìn đi nhìn lại cái áo của Joseph).
345 Ôi con! con ôi! Cha già đâu tưởng làm vầy,
Con trẻ không dè ra vậy!
CHÚNG TỬ VIẾT:
Ối em ôi! Thôi đà hết thấy,
Khôn lẽ còn trông!
JACOB CHÚNG TỬ ĐỒNG THÁN VIẾT:
Biển vùn dậy sóng!
350 Trời phút nổi dông!
Cuộc đời còn mất dường như mộng,
Người thấy nở tàng dát thể bông!
Vừa mới non xanh,
Vẫn lại trăm nhành đều đủ có,
Còn đang tươi tốt,
Phút đâu một trận hóa ra không!
HỰU VIẾT:
355 Chúc thái bình nam bắc tây đông,
Nguyền yên phận sỉ nông công cổ,
Sự Joseph tồn vong chưa rỏ,
358 Coi hạ hồi phân giải mới hay.
NGÂM VIẾT:
Lời nói nghe coi cũng khó thay,
Hoặc là rủi đó hoặc là may,
Nghĩ tình cốt nhục còn xa cách,
Nên phải tính lời mới được vay.
Chợ-lớn, ngày 20 tháng 9 năm Đinh-hợi, 5 novembre 1887.
Chú thích
- ▲ Ông Joseph sanh năm 2113 trước Đức Chúa Jésus, mất năm 2003, sống được 110 năm. Năm nay là năm 1887 sau Đức Chúa Jésus, vậy việc ông ấy đã quá 3.000 năm rồi
- ▲ Chanaan là tên khi xưa kêu xứ Palestine, với xứ Phénicie. Chỗ nầy Đức Chúa Trời hứa cho dân Hébreux, mà qua năm 1605 trước Chúa Jésus thì Josué mới đem dân ấy vào ở chỗ đó.
Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.