Truy tán Pháp Vân tự Tì-ni-đa-lưu-chi thiền sư

Truy tán Pháp Vân tự Tì-ni-đa-lưu-chi thiền sư - 追讚法雲寺毘尼多流支禪師
của Lý Thái Tông, do Ngô Tất Tố dịch

Thiền sư Tì-ni-đa-lưu-chi người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) dòng Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đã có chí khác thường, đi khắp miền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham khảo Thiền tông. Nhưng vì cơ duyên chưa gặp, Sư lại sang Đông Nam. Đến niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu (580), Sư sang Việt Nam trụ trì tại chùa Pháp Vân đến khi viên tịch. Về sau, vua Lý Thái Tông làm bài kệ truy tán này phong tặng Sư.

Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa Dịch thơ của Ngô Tất Tố

創自南來國,
聞君久習禪。
應開諸佛信,
遠合一心源。
皎皎楞枷月,
芬芬般若蓮。
何時臨面見,
相與話重玄。

Sáng tự[1] Nam lai quốc,
Văn quân cửu tập thiền.
Ứng khai chư Phật tín,
Viễn hợp nhất tâm nguyên.
Hạo hạo Lăng Già nguyệt,
Phân phân Bát Nhã liên.
Hà thời lâm diện kiến,
Tương dữ thoại trùng huyền.

Lần đầu đến nước Nam,
Được biết người am hiểu rất sâu sắc đạo Thiền.
Nên đã mở rộng giáo lý của các phật,
Khiến người đời sau hòa hợp được với cội nguồn chữ tâm.
Trăng Lăng Già sáng vằng vặc,
Sen Bát nhã ngát hương thơm.
Bao giờ được gặp mặt nhau,
Để cùng đàm luận về lý lẽ vô cùng huyền diệu.

Cõi Nam đầu bước tới,
Nghe đã đượm màu Thiền.
Tin phật, mong thêm rộng,
Nguồn lòng khéo hợp duyên.
Non già trời bóng nguyệt,
Cõi Nhã nức mùi sen.
Họp mặt chừng bao tá?
Cùng nhau giảng lẽ huyền.

   




Chú thích

  1. Tích tức là gậy tích trượng của nhà sư thường cầm. Phi tích ý nói nhà sư cầm tích trượng đi du hành.