CHUYỆN NGHIỆP-OAN CỦA ĐÀO-THỊ

danh-kỹ ở Từ-sơn là Đào-thị, tiểu-tự Hàn-than, thông hiểu âm luật và chữ nghĩa. Niên-hiệu Thiệu-phong thứ 5 (1345) đời nhà Trần, nàng được tuyển sung vào làm cung-nhân, hằng ngày chầu-hầu vua ở tiệc rượu hay ở chiếu bạc. Một hôm vua thả thuyền chơi trên sông Nhị, rồi đi lần xuống tận bến Đông-bộ-đầu. Vua lãng ngâm rằng:

霧 翳 鐘 聲 小
Vụ ế chung thanh tiểu
沙 平 樹 影 長
Sa bình thụ ảnh trường

Nghĩa là:

Mù tỏa tiếng chuông nhỏ
Cát phẳng bóng cây trường (dài)

Các quan chưa ai nối được, nàng Đào liền ứng khẩu đọc ngay:

寒 灘 魚 吸 月
Hàn than ngư hấp nguyệt
古 壘 鴈 鳴 霜
Cổ lũy nhạn minh sương

Nghĩa là:

Bến lạnh cá đớp nguyệt
Lũy cổ nhạn kêu sương.

Vua khen-ngợi hồi lâu, nhân gọi nàng là « Ả Hàn-than ».

Vua Dụ-tôn mất, nàng phải thải ra ở ngoài phố, thường đi lại nhà quan Hành-khiển là Ngụy Nhược-chân. Bà vợ quan Hành-khiển không có con mà tính hay ghen, ngờ Hàn-than tư thông với chồng, bắt nàng đánh một trận rất là tàn-nhẫn. Nàng tức-tối lắm, đem những trâm thoa bằng vàng ngọc bán đi để thuê thích-khách vào nhà Nhược-Chân trả thù.

Nhưng thích-khách đến, bị người nhà Nhược-Chân bắt được, lúc đem tra-khảo, hắn xưng ra Hàn-than. Hàn-than sợ phải cạo trọc đầu và mặc đồ nâu sồng, trốn đến tu ở chùa Phật-tích, (chùa Thầy); giảng kinh thuyết kệ, chỉ mấy tháng đã lảu thông lắm. Nàng có dựng ra cái am gọi là am Cư-tĩnh, mời họp các văn-nhân để xin một bài bảng-văn. Bấy giờ trong làng có một cậu học-trò tuổi độ 14, 15, cũng đến hội-họp. Hàn-than khinh là còn ít tuổi, nói đùa rằng:

— Anh bé con này cũng làm văn được à? Vậy thử làm cho tôi xem nào.

Cậu học-trò không tỏ vẻ giận gì cả, lui ra dò hỏi được gốc tích Hàn-than, rồi làm bài văn như sau:

蓋 聞 佛 本 慈 悲 其 名 曰 覺
Cái văn: Phật-bản từ-bi, kỳ danh viết giác,
人 能 青 靜 即 偽 成 真
Nhân năng thanh tịnh, tức ngụy thành chân.
能 修 法 界 津 梁
Năng tu pháp giới tân lương,
便 是 叢 林 宗 主
Tiện thị tùng lâm tông chủ.
敬 惟 佛 跡 山 庵 主 陶 氏
Kính duy Phật-tích sơn am-chủ Đào-thị,

名 逃 樂 籍
Danh đào nhạc tịch
頂 禮 梵 王
Đính lễ Phạm vương
桃 口 柳 腰 掉 舌 際 纔 按 閱 梁 州 幾 曲
Đào khẩu liễu yêu, trạo thiệt tế tài án duyệt Lương-châu kỷ khúc.
慈 雲 慧 日 擡 頭 間 已 皈 依 兜 率 諸 天
Từ vân tuệ nhật, đài đầu gian dĩ quy y Đâu-xuất chư thiên.
裙 抛 湘 水 層 層
Quần phao Tương thủy tằng tằng
鬢 落 楚 雲 段 段
Mấn lạc Sở vân đoạn đoạn
夢 裡 無 端 觸 景 半 枕 遊 仙
Mộng lý vô đoan xúc cảnh, bán chẩm du tiên
風 前 何 處 撩 人 數 腔 短 笛
Phong tiền hà xứ liêu nhân, sổ xoang đoản địch
歌 院 不 如 增 院 靜
Ca viện bất như tăng viện tĩnh
衲 衣 絕 勝 舞 衣 涼
Nạp y tuyệt thắng vũ y lương
水 掬 曹 溪 猶 分 窺 鏡 影
Thủy cúc Tào-khê, do phân khuy kính ảnh
夜 宣 貝 葉 尚 作 繞 梁 聲
Dạ tuyên bối diệp, thượng tác nhiễu lương thanh
雖 云 禪 定 忘 機
Tuy vân thiền định vong cơ
叵 奈 狂 心 被 酒
Phả nại cuồng tâm bị tửu
足 不 向 潯 陽 送 客
Túc bất hướng Tầm-dương tống khách

身 却 來 杭 郡 參 禪
Thân khước lai Hàng-quận tham thuyền
五 陵 兒 抛 錦 纏 頭 追 隨 未 已
Ngũ Lăng nhi phao cẩm triền đầu, truy tùy vị dĩ
三 生 客 結 蓮 花 社 招 引 何 頻
Tam sinh khách kết Liên-hoa xã, chiêu dẫn hà tần
噫! 鐘 殘 茶 歇 無 餘 事
Y! chung tàn trà yết vô dư sự
好 向 山 房 一 打 眠
Hảo hướng sơn phòng nhất đả miên

Dịch:

Mảng nghe:
Phật vốn từ bi, gọi tên là Giác,
Người mà thanh-tĩnh, hóa giả thành chân
Muốn nên tông-chủ trong rừng thiền,
Hãy gắng tu-trì trong cõi phép.
Kính nghĩ am-chủ ở núi Phật-tích là Đào-thị:
Sổ ca-nhạc rút tên ra khỏi,
Cửa Phạm-vương[1] núp bóng tìm vào.
Miệng đào lưng liễu, uốn lưỡi vừa véo-von mấy khúc Dương-châu[2].
Nhật sáng mây lành, nghển đầu đã nương-tựa dưới trời Đâu-xuất[3]

Quần ném dòng Tương lớp lớp.
Tóc rơi mây Sở từng từng.
Trong mơ xúc cảnh bâng-khuâng, du tiên nửa gối
Trước gió ghẹo người giéo-giắt, đoản địch vài xoang.
Phòng tăng vắng-vẻ khác phòng ca.
Áo đạo nhẹ-nhàng hơn áo múa.
Khe Tào múc nước[4], chợt ngờ mặt phấn trong gương.
Lá bối[5] tụng kinh, còn thoảng âm vang trước nóc[6]!
Mùi thiền dẫu bén,
Lòng tục chưa phai.
Bến Tầm-dương[7] không đến gảy tỳ bà
Chùa Hàng-quận[8] lại vào nghiền kinh kệ.

Gấm triền-đầu phấp-phới, theo đuổi chưa thôi[9].
Hội Liên-hoa dập-dìu, đón mời sao khéo[10].
Ôi! Chuông tàn trà cạn ngồi chi nữa?
Buồng núi vào tìm một giấc say. »

Bài văn làm xong, viết lớn rồi dán ở cửa chùa, xa gần đua nhau chép. Hàn-than nhân thế, đương đêm bỏ chùa mà trốn. Nghe chùa Lệ-kỳ (thuộc huyện Chí-linh) ở hạt Hải-dương là một nơi nước tú non kỳ, phong-cảnh tuyệt đẹp, trụ-trì có sư già Pháp-Vân và sư bác Vô-Kỷ, bèn đến chùa xin vào bái-yết. Pháp-Vân không nhận và bảo Vô-Kỷ rằng:

— Người con gái này, nết không cẩn-nguyện, tính bén lẳng-lơ, tuổi đã trẻ-trung, sắc lại lộng-lẫy, ta e lòng thiền không phải đá, sắc đẹp dễ mê người; tuy sen hồng chẳng nhuộm bùn đen, nhưng tấc mây dễ mờ bóng nguyệt. Vậy ngươi nên liệu lời từ-chối, đừng để hối-hận về sau.

Vô-Kỷ không nghe, lại cứ nhận cho Hàn-than ở. Pháp-Vân lập tức dời lên ở tận trên đỉnh núi Phượng-hoàng.

Hàn-than tuy ở chốn thanh-tịnh nhưng nết cũ vẫn chưa trừ bỏ. Mỗi lúc ở nhà dưới đi lên, mặc áo lụa, mang quần là, điểm môi son, tô má phấn. Cõi dục đã gần, máy thiền dễ chạm, bèn cùng nhau tư thông. Hai người đã yêu nhau, mà đắm say-sưa, chẳng khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu-hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh-kệ nữa.

Hằng ngày hai người thường cùng nhau làm thơ liên cú, phàm những cảnh-vật trong núi, cái gì có thể ngâm vịnh được đều dấp bút đề vịnh để ghi danh thắng. Những thơ như thế nhiều lắm không thể chép hết được, xin thuật ra đây độ một hai phần:

I

山 雲

SƠN VÂN

遙 睇 濃 還 淡
Dao đê nùng hoàn đạm
千 邊 濕 未 晞
Thiên biên thấp vị hy
曉 隨 疎 雨 去
Hiển tùy sơ vũ khứ
暮 帶 落 霞 歸
Mộ đới lạc hà quy
靉 靆 因 風 捲
Ai đại nhân phong quyển
悠 揚 到 處 飛
Du-dương đáo xứ phi.
增 慵 童 亦 懶
Tăng dung đồng diệc lãn
誰 爲 掩 巖 扉
Thùy vị yểm nham phi.

Lược dịch:

MÂY NÚI

Bên trời đặm nhạt không thường,
Ráng chiều mưa sớm bốn phương đi về.
Sư lười tiểu cũng lười ghê,
Siêng-năng khép cửa bồ-đề ấy ai?

II

山 雨

SƠN VŨ

一 雨 千 巖 暝
Nhất vũ thiên nham mính
瀟 瀟 作 意 鳴
Tiêu tiêu tác ý minh
珠 璣 堆 地 色
Châu cơ đôi địa sắc
星 斗 落 天 聲
Tinh đẩu lạc thiên-thanh
溜 奪 泉 流 急
Lựu đoạt toàn lưu cấp
涼 回 客 夢 清
Lương hồi khách mộng thanh
山 房 無 箇 事
Sơn phòng vô cá sự
入 夜 幾 殘 更
Nhập dạ kỷ tàn canh

Lược dịch:

MƯA NÚI

Rào-rào một trận mưa rơi,
Đầu non ngọc rụng, lưng trời sao sa.
Nước xô hơi lạnh vào nhà,
Buồng sâu quạnh vắng đêm tà tà canh.

III

山 風

SƠN PHONG

靈 籟 噓 幽 洞
Linh lại khư u đỗng
終 宵 策 策 聲
Chung tiêu sách sách thanh

翻 花 紅 意 亂
Phiên hoa hồng ý loạn
捲 樹 綠 陰 驚
Quyển thụ lục âm kinh
僧 衲 含 涼 淺
Tăng nạp hàm lương thiển
鐘 樓 送 響 清
Chung lâu tống hưởng thanh
茫 茫 天 地 內
Mang mang thiên địa nội
非 爲 不 平 鳴
Phi vị bất bình-minh

Lược dịch:

GIÓ NÚI

Thâu đêm tiếng thổi ào-ào,
Hoa xơ-xác thắm, cây rào-rạt xanh.
Chuông lầu đưa tiếng thanh-thanh,
Không-gian nào phải bất-bình mà kêu.

IV

山 月

SƠN NGUYỆT

隱 隱 林 梢 迥
Ẩn-ẩn lâm sao quýnh
連 空 灝 氣 浮
Liên không hạo khí phù
啣 山 銀 鏡 缺
Hàm sơn ngân kính khuyết
隔 霧 玉 盤 收
Cách vụ ngọc bàn thu
影 落 松 關 靜
Ảnh lạc tùng quan tĩnh

涼 回 竹 院 幽
Lương hồi trúc viện u
清 光 隨 處 有
Thanh quang tùy xứ hữu
何 必 上 南 樓
Hà tất thướng Nam-lâu

Lược dịch:

TRĂNG NÚI

Sau rừng khí sáng lên cao,
Long lanh gương bạc gác vào đỉnh non.
Bóng soi mát dịu tâm-hồn,
Lên lầu Nam, lọ phải còn tốn công[11].

V

山 寺

SƠN TỰ

一 簇 輝 金 碧
Nhất thốc huy kim bích
巖 腰 隱 夕 陽
Nham yêu ẩn tịch-dương
風 高 松 洶 浪
Phong cao tùng húng lãng
天 近 桂 飄 香
Thiên cận quế phiêu hương
洞 小 禽 聲 鬧
Đỗng tiểu cầm thanh náo
峯 斜 塔 影 長
Phong tà tháp ảnh trường
塵 間 名 利 客
Trần-gian danh-lợi khách

望 此 幾 徬 徨
Vọng thử kỷ bàng-hoàng

Lược dịch:

CHÙA NÚI

Am thanh ẩn dưới bóng tà,
Thông cao hát gió, quế già phun hương.
Chim rừng ríu-rít kêu vang,
Khách trần ai có mơ-màng chăng ai?

VI

山 童

SƠN ĐỒNG

生 長 樵 蘇 地
Sinh trường tiều tô địa
寧 知 淺 草 原
Ninh tri thiển thảo nguyên
狂 歌 雲 黑 暗
Cuồng ca vân hắc ám
短 笛 日 黄 昏
Đoản địch nhật hoàng-hôn.
麋 鹿 鳧 翳 侶
My lộc phù ê lữ
煙 霞 木 石 村
Yên hà mộc thạch thôn.
歸 來 深 洞 裏
Quy lai thâm đỗng lý
雲 闢 小 乾 坤
Vân tịch tiểu càn khôn.

Lược dịch:

TIỂU ĐỒNG TRONG NÚI

Năm năm sinh-trưởng trong rừng
Đùa mây hát sớm, thét trăng còi chiều

Bạn bầy chim đá nai hươu,
Càn khôn riêng mở bên đèo khói mây.

VII

山 猿

SƠN VIÊN

隱 約 巢 南 侶
Ẩn ước sào nam lữ
緣 崖 日 幾 回
Duyên nhai nhật kỷ hồi
愁 將 巴 淚 落
Sầu tương Ba lệ lạc
聲 入 楚 雲 哀
Thanh nhập Sở vân ai
飲 澗 呼 朋 去
Ẩm giản hô bằng khứ
聞 經 作 伴 來
Văn kinh tác bạn lai
雲 深 何 處 覓
Vân thâm hà xứ mịch
山 色 正 崔 嵬
Sơn sắc chính thôi ngôi.

Lược dịch:

VƯỢN NÚI

Non cao ngoăn-ngoắt leo chơi,
Tiếng kêu buồn, để cho người rơi châu.
Uống khe dắt rủ bạn bàu,
Ngàn mây ẩn bóng biết đâu dò tìm.

VIII

山 鳥

SƠN ĐIỂU

身 世 雲 烟 外
Thân thế vân yên ngoại

依 依 盡 日 閒
Y y tận nhật nhàn
一 聲 山 色 暝
Nhất thanh sơn sắc mính
數 箇 夕 陽 還
Sổ cá tịch dương hoàn
僧 供 啣 來 菓
Tăng cúng hàm lai quả
巢 棲 到 處 山
Sào thê đáo xứ san
啁 啾 誰 會 意
Chu thu thùy hội ý
飛 繞 薛 蘿 間
Phi nhiễu tiết la gian

Lược dịch:

CHIM NÚI

Khói mây ngày tháng thong dong,
Kêu trong sắc núi, vờn trong bóng chiều.
Tha quả chín, đậu đồi kiêu,
Bên rừng lá rậm dập-dìu liệng quanh.

IX

山 花

SƠN HOA

暖 入 高 低 樹
Hoãn nhập cao đê thụ
枝 枝 火 欲 燃
Chi chi hỏa dục nhiên
東 西 霞 世 界
Đông tây hà thế giới
遠 近 錦 山 川
Viễn cận cẩm sơn xuyên
紅 雨 林 腰 墮
Hồng vũ lâm yêu đọa

香 風 洞 口 傳
Hương phong đỗng khẩu truyền
自 開 還 自 落
Tự khai hoàn tự lạc
今 古 幾 春 天
Kim cổ kỷ xuân thiên.

Lược dịch:

HOA NÚI

Xuân sang đỏ ối cành cành,
Mây thêu gấm dệt bao quanh bốn bề.
Sắc hương man-mác rừng khe,
Cổ kim từng biết bao khi nở tàn.

X

山 葉

SƠN DIỆP

一 碧 天 無 際
Nhất bích thiên vô tế
叢 條 人 望 迷
Tùng điều nhân vọng mê
秋 來 黄 被 徑
Thu lai hoàng bị kính
春 到 綠 盈 蹊
Xuân đáo lục doanh khê
晝 捲 無 人 掃
Chú quyện vô nhân tảo
煙 深 有 鳥 啼
Yên thâm hữu điểu đề
蒼 然 看 不 盡
Thương nhiên khan bất tận
千 里 夕 陽 西
Thiên lý tịch dương tê

Lược dịch:

LÁ NÚI

Lưng không bát-ngát bốn bề,
Thu sang ngập úa, xuân về rợp xanh,
Chim kêu ríu-rít đầu cành,
Tà dương bóng ngả chênh-chênh ngàn đoài.

Hai người ham-mê nhau quá, ngoài cái thú vui sướng trước mắt, không còn nghĩ đến điều gì. Xưa nay vui quá dễ sinh buồn, sự đó có gì là lạ. Năm Kỷ-sửu (1349), nàng quả vì có thai rồi ốm, lay lứt từ mùa xuân đến mùa hạ, ngồi lên nằm xuống, đều tất phải có người đỡ vực. Sư Vô-Kỷ vốn không biết thuốc, lại không biết đường chạy chữa, khiến nàng sau phải quằn-quại chết ở trên giường cữ. Vô-Kỷ xót thương vô hạn, quàn nàng ở cuối mái hành-lang phía tây, sớm tối vỗ vào áo quan mà khóc rằng:

— Em ơi, em vì anh mà chết một cách oan uổng. Nếu anh được theo em cùng chết, anh rất sẵn lòng, khỏi để em vò-võ một mình ở nơi chín suối. Huống em bình sinh vốn thông tuệ, khác hẳn với mọi người thường, nếu có linh-thiêng, xin sớm cho anh được theo về dưới đất; anh không muốn lại trông thấy sư cụ Pháp-Vân nữa.

Sau mấy tháng Vô-Kỷ cũng vì nhớ thương mà thành ốm, lai nhai đến nửa năm trời, bỏ cả cơm cháo. Một đêm thấy Hàn-than hiện đến bảo rằng:

— Thiếp buổi trước ngàn dâu xế bóng, cửa Phật nương mình; đáng cười thay chưa dứt lòng trần, thêm ngán nỗi còn vương nợ nghiệt; đài Dao mệnh dứt, đến nỗi chia bay; sống còn chưa được thỏa yêu đương, chết xuống sẽ cùng nhau quấn-quít. Mong chàng hiểu câu kệ lục-như[12] bỏ cõi thiền tứ-đại[13], tạm rời cảnh Phật, về chốn suối vàng, để thiếp được ngửa nhờ phật-lực, thác hóa đầu thai, đặng trả cho xong một cái nợ oan-gia ngày trước.

Nói xong thì không thấy đâu cả. Từ đấy bệnh Vô-Kỷ ngày càng nguy-kịch. Sư cụ Pháp-Vân nghe tin, xuống núi để thăm, thì bệnh đã không thể cứu-vãn được nữa, đành chỉ trông nhau ứa nước mắt, rồi một lát thì Vô-Kỷ chết.

Đêm hôm ấy gió mưa dữ-dội, ở kinh-đô có nhiều nhà lật mái đổ tường. Bà vợ quan nguyên Hành-khiển Ngụy Nhược-Chân chiêm-bao thấy hai con rắn cắn vào mạng sườn ở dưới nách bên tả. Sau đó rồi bà có mang, sinh ra được hai người con trai, đặt tên người con lớn là Long-Thúc, người con bé là Long-Quý. Hai đứa trẻ ấy mới đầy tuổi tôi đã biết nói, lên 8 tuổi đã biết làm văn, được cha mẹ rất là yêu-quý. Bấy giờ đương giữa mùa hè nóng bức, Nhược-Chân một hôm ngồi hóng mát trên cái lầu cao. Cửa lầu trông xuống đường, có một vị thầy tu đói khó đi qua ở dưới, dùng-dằng trông ngắm, muốn đi mà không đi đứt được. Chợt rồi người ấy phàn-nàn:

— Lạ thay tòa lâu đài thế kia mà rồi sẽ thành cái vực của thuồng-luồng. Đáng tiếc! đáng tiếc!

Nhược-Chân sợ hãi thất sắc, vội chạy theo hỏi. Ban đầu thầy tu không chịu nói, chỉ bảo vừa rồi bàng-hoàng nói nhảm chứ không thấy có gì lạ, xin bất tất phải nghi-ngờ. Nhưng Nhược-Chân cứ cố khẩn-nài, thầy tu mới bảo là nhà ông chứa đầy cái khí yêu-quái, nếu không là nghiệp báo kiếp trước thì tất là oan gia kiếp này, người ta đã ở trong nhà ông, chỉ năm tháng nữa thì cả nhà không còn sống sót một mống. Nhược-Chân kêu xin cứu cho, thầy tu nói:

— Tôi vốn có con mắt xem người rất sành. Xin cho tôi xem tất cả người trong nhà, hễ tôi thấy đúng người nào thì gõ vào cái chậu để cho ông biết. Nếu tiết-lộ ra một lời thì tai-vạ xảy ngay lập tức.

Nhược-Chân gọi tất cả người nhà ra lạy chào. Thầy tu xem khắp lượt rồi lắc đầu nói:

— Đều không phải cả.

Lại hỏi trong nhà còn ai thì phải gọi nốt ra. Nhược-Chân vào gọi nốt hai con trai đương ngồi ở trong nhà học. Khi hai người con trai đến, thầy tu liền gõ vào cái chậu rồi nức-nở khen:

— Quý hóa thay hai cậu con trai! Sau này làm nên sự-nghiệp lừng-lẫy, vẻ-vang cho nhà và danh-giá với đời, tất-nhiên là những cậu này.

Hai người đều giận nói:

— Thầy chùa ở đâu đến đây mà bẻm mép tán xằng gì thế?

Nói rồi đều phất áo đi vào. Nhược-Chân không bằng lòng; thầy tu cũng từ-giã ra đi.

Đêm hôm ấy, Long-Quý khóc bảo với Long-Thúc rằng:

— Vị yêu-tăng hôm nay, lời nói ba-hoa hình như có ý dòm-dỏ. Nếu hắn mà biết e rằng sẽ nguy cho chúng ta lắm đấy.

Long-Thúc cười mà rằng:

— Trừ được chúng ta, duy có một sư cụ Pháp-Vân. Còn những kẻ khác, ta chỉ giở tay là cướp được bùa dấu của họ. Huống chi Nhược-Chân đối với ta, tất vì tình cốt-nhục mà không hiềm-nghi gì cả, ta có thể yên-ổn không lo ngại gì.

Bấy giờ Nhược-Chân nằm ngủ không yên, đương dậy đi một mình thơ-thẩn, tình cờ do chỗ khe cửa sổ mà nghe lóng được, sợ-hãi hết sức, không biết tính thế nào. Ngày hôm sau, nói vờ là có chút việc, từ nhà ra đi, dò thăm khắp các danh lam, tìm hỏi vị sư cụ có cái hiệu là Pháp-Vân. Trải hơn một tháng đến tòa chùa ở núi Lệ-Kỳ, thấy gã tiểu-đồng nói hồi nhỏ có được nghe tên hiệu ấy, nhưng sư cụ đã dời vào núi sâu từ lâu rồi. Tiểu-đồng nhân trỏ lên ngọn núi Phượng-hoàng mà bảo:

— Sư cụ ở trên núi kia kìa.

Nhược-Chân bèn xắn áo đi lên, qua 4, 5 dặm nữa mới tới chỗ sư cụ ở. Bấy giờ sư cụ đương nằm ngủ ở trên ghế, tiếng ngáy như sấm, hai bên tả hữu có hai chú tiểu đứng hầu. Nhược-Chân khúm-núm đi lên; hai gã tiểu-đồng quát mắng làm cho sư cụ tỉnh giấc. Nhược-Chân đến trước sụp lạy và kể cái bản-ý tìm đến của mình. Sư cụ cười mà rằng:

— Sao tiên-sinh lầm thế? Lão-phu thân không ở chùa-chiền, chân không đến thành-thị đã lâu năm rồi. Nay chỉ có thể ở trong am cỏ, quét đất thắp hương, tụng kinh Lăng-nghiêm mấy lần. Chứ còn đến bay bùa chạy dấu thì không phải là việc của lão.

Sư cụ hết sức từ-chối nhưng hai tiểu-đồng đứng lên nói:

— Đức Phật nhà ta lấy từ-bi làm bè, tế-độ làm cửa, thương bể khổ trôi-nổi, cứu sông mê đắm-chìm. Bởi vì ngài muốn ai nấy cùng sang bỉ ngạn, cùng gội thiện duyên. Nếu thầy nhất định chối-từ thì sao làm rộng đạo nhà Phật ra được.

Bấy giờ sư cụ mới vui-vẻ nhận lời. Bèn dựng một đàn tràng ngay ở trên núi, treo đèn bốn mặt và lấy bút son vẽ bùa dấu. Ước một trống canh thì có đám mây đen mươi trượng bao bọc ở xung quanh đàn, một cơn gió lạnh thổi ào làm cho người phải ghê rờn-rợn. Sư cụ cầm cây tích-trượng chỉ-huy tả hữu, có lúc lại ra khỏi đàn làm ra bộ quát-mắng. Nhược-Chân ngồi ở một gian nhà phía xa, mở mành trông trộm, nhưng vẳng lặng chẳng thấy gì cả, chỉ nghe trên không có tiếng khóc y-ỷ, một lúc tiếng tắt mà đám mây cũng tan. Sáng hôm sau, sư cụ lấy một phiến đá bôi hùng hoàng vào rồi viết mực lên, trao cho Nhược-Chân mà bảo:

— Ông về hễ thấy loài yêu quái biến ra vật gì, kíp lấy đá này mà ném thì những mối thừa của tai-họa sẽ dứt được hết.

Nhược-Chân về đến nhà, thấy người nhà đương ngồi châu đầu mà khóc. Bà vợ kể chuyện canh ba đêm nọ, hai con trai cùng dắt nhau xuống giếng mà chết, nước giếng dềnh lên hầu ngập cả thềm, hiện hai cái thây đều đã quàn ở vườn nam, chỉ đợi Nhược-Chân về thì đem mai-táng. Nhược-Chân hỏi:

— Trước lúc chết, chúng nó có nói gì không?

— Chúng chỉ phàn-nàn là giá chậm độ mấy tháng nữa thì công việc xong, không ngờ bị kẻ cuồng tăng làm hại.

Nói xong, phu-nhân lại gào khóc. Nhược-Chân can-ngăn rồi cùng ra vườn nam mở nắp quan-tài để xem. Khi mở thấy hai cái thây đã hóa thành hai con rắn vàng; lấy hòn đá ném thì chúng liền nát ra tro cả.

Vợ chồng bèn sắm nhiều vàng lụa đem đến tạ ơn sư cụ Pháp-Vân. Nhưng đến nơi thì thấy am cỏ rêu-phong, không tìm nhận ra được vết đi nào cả, nhân buồn-bã cùng nhau trở về.


Lời bình

Than ôi! theo về dị-đoan chỉ là có hại[14]. Huống chi đã theo lại còn không giữ cho đúng phép, thì mối hại phỏng còn xiết nói được ư? Gã Vô-Kỷ kia, là một kẻ gian-dâm, buông những thói tà-dục, chẳng những dối người, lại còn dối vị Phật của hắn thờ nữa. Giả đem xử vào cái tội như vua Ngụy giết bọn Sa-môn[15] ngày xưa thì hắn cũng không oan chút nào.

Thế còn Nhược-Chân thì hẳn là không có lỗi chăng? Đáp rằng làm quan mà như thế, còn gì gọi là chính gia được nữa! Mầm-vạ mọc lên, xuýt nữa hãm vào bước nguy-khốn, chính là mình làm mình chịu, không đáng lấy làm lạ chút nào.

   




Chú thích

  1. Cửa Phạm Vương là cửa Phật.
  2. Khoảng niên-hiệu Thiên-bảo đời Đường, các điệu nhạc đều lấy tên các đất ở ngoài biên-cương như Lương-châu, Cam-châu, Y-châu v.v.
  3. Sách Thiên-hạ dị-kỷ nói cảnh-giới nhà Phật ở một tầng trời gọi là trời Đâu-xuất, tầng trời ấy ở trên 33 tầng trời.
  4. Đời Lương, có vị cao-tăng là Tri-dược từ nước Thiên-trúc sang Tàu, thuyền đến cửa khe Tào-khê ở Thiều-châu, thoáng thấy mùi thơm, múc nước nếm, rồi bảo: Thượng lưu dòng nước này ở chỗ thắng địa. Bèn mở núi làm chùa, gọi là Bảo-lâm.
  5. Kinh Phật thường viết bằng lá câu bối.
  6. Hàn Nga sang Tề, đi qua cửa Ung thì hết lương, phải hát rong kiếm tiền ăn; đi rồi mà tiếng hát còn văng-vẳng trên nóc nhà ba ngày không dứt.
  7. Chuyện người ca-kỹ về già lấy người lái buôn, đỗ thuyền ở bến Tầm-dương; ông Bạch Lạc-thiên đến bến ấy tiễn khách nghe tiếng đàn tỳ-bà, tìm đến rồi bảo gảy đàn cho nghe.
  8. Ả ca-kỹ ở Tây-hồ thuộc đất Hàng-châu tên là Cầm-tháo, một lần tiếp nhà văn-sĩ Tô Đông-pha, nghe ông đọc hai câu thơ « Môn ngoại lãnh lạc yên mã hy, lão đại giá tác thương nhân phụ ». Nghĩa là: « Ngoài cửa lạnh-lùng xe ngựa vắng, tuổi già duyên kết chú phường buôn ». Cầm Tháo tỉnh-ngộ bèn cắt tóc đi tu.
  9. Đời Đường, những công-tử vương-tôn nghe hát, thường lấy gấm quàng đầu con hát để thưởng, gọi « phao cẩm triền đầu ».
  10. Thầy chùa Huệ-Viễn đời Tấn cùng các bạn tu 18 người hội-họp gọi là hội Bạch-liên-hoa, viết thư mời ông Đào Uyên-minh đến dự. Uyên-minh bảo có cho uống rượu mới đến, Viễn nhận lời. Nhưng khi Uyên-minh đến lại không có rượu, ông không bằng lòng, cau mày bỏ đi.
  11. Dữu Lương đời Tấn làm Đô-Đốc Kinh-châu thường lên lầu Nam thưởng nguyệt.
  12. Kinh Phật có một bài kệ nói hết thảy việc đời đều như mộng, như huyễn, như bọt, như bóng, như sương, như điện, người ta gọi là kệ lục-như.
  13. Kinh phật nói có 4 châu lớn là những châu Thắng-thân, Thiệm-bộ, Ngưu-hóa, Câu-lư.
  14. Câu này là lời của cụ Khổng chép trong sách Luận-ngữ. Dị-đoan đây trở vào đạo Phật. Nhà Nho cho các đạo khác trái với đạo Nho đều là dị-đoan.
  15. Thôi Hạo đời Ngụy ghét đạo Phật. Nhân vua Ngụy đến thành Trường-an, vào một cái chùa thấy có binh-khí và nhà hầm chứa giấu đàn-bà con-gái, Hạo bèn nói với vua giết hết Sa-môn (sư) trong thiên-hạ và đốt kinh hủy tượng.