CHUYỆN NÀNG TÚY-TIÊU


Người đất Kiến-hưng, Dư Nhuận-Chi tên là Tạo-Tân, có tiếng hay thơ; nhất là về những bài hát, lại càng nức danh ở kinh-kỳ, mỗi bài làm ra, phường hát bội đem tiền tặng-biếu rất hậu để xin lấy. Nhân thế, Dư càng nổi thanh-giá ở chốn tao-đàn. Cuối đời Thiệu-phong nhà Trần, Dư nhân có việc, vào yết-kiến quan Trấn-soái Lạng-giang là Nguyễn Trung-Ngạn[1]. Ông Nguyễn thấy Dư đến, lật đật ra tiếp, đặt tiệc ở Phiếm-bích-đường thết đãi, gọi mười mấy người con hát ra hát múa ở trước tiệc. Trong bọn con hát có ả Túy-tiêu 翠 綃 là người rất xinh-đẹp. Ông Nguyễn đùa bảo Dư-sinh rằng:

— Ấy tùy ngài kén chọn trong bọn ấy, hễ bằng lòng ai thì tôi xin tặng cho.

Rồi âm nhạc nổi lên. Sinh ngâm một bài thơ sau này:

蓮 花 朵 朵 倚 紅 酣
Liên hoa đóa đóa ỷ hồng hàm,
曾 對 僊 家 玉 塵 談
Tằng đối tiên gia ngọc chủ đàm,

醉 枕 綃 衣 呼 得 起
Túy trẩm tiêu y hô đắc khởi,
數 聲 好 唱 望 江 南
Sổ thanh hảo xướng vọng giang-nam.

Dịch:

Hoa sen đóa đóa rỡ-ràng tươi,
Góp mặt nhà tiên lúc nói cười.
Áo lụa say nằm nghe gọi dậy,
Giang-nam một khúc quyến hồn người.

Ông Nguyễn cười bảo Túy-Tiêu rằng:

— Thầy đồ để ý vào nàng[2] đấy.

Sinh hôm ấy uống rượu rất say, mãi đến đêm khuya mới tỉnh, đã thấy nàng Túy-Tiêu ở cạnh, cảm ơn ông Nguyễn không biết chừng nào. Sáng hôm sau sinh vào tạ ơn ông Nguyễn để về, ông Nguyễn bảo:

— Ả ấy kể cũng là một người phong-lưu, thầy nên khéo yêu-thương lấy.

Sinh bèn đem nàng về Kiến-hưng. Túy-Tiêu vốn có khiếu thông-tuệ, mỗi khi sinh đọc sách, nàng cũng học thầm mà rồi thuộc được. Sinh nhân đem những quyển sách nói về thơ từ mà dạy nàng. Chưa đầy môt năm, nàng đã làm được những thơ từ ngang với của sinh. Năm Mậu-tuất (1358), nhân gặp khoa thi, sinh sắm-sửa hành-trang lên kinh; không nỡ rời nhau, nên đem theo cả nàng cùng đi, cùng trọ tại phố Phường-thái ở cửa sông. Gặp ngày mồng một đầu năm, Túy-Tiêu rủ mấy người bạn gái, đến chùa tháp Báo-thiên[3] dâng hương lễ Phật. Bấy giờ có quan Trụ-quốc họ Thân thầm đi chơi phố, trông thấy Túy-Tiêu đẹp, bắt cướp đem về làm của mình. Sinh làm đơn kiện tận triều-đình, nhưng vì họ Thân uy-thế rất lớn, các tòa các sở đều tránh kẻ quyền-hào, gác bút không dám xét xử. Sinh đau buồn lắm bèn chẳng thiết gì thi-cử nữa. Một hôm sinh thủng-thỉnh đi chơi ngoài phố, gặp đám người cưỡi ngựa đi xem hoa về, tiền hô hẩu ủng rất oai-vệ, trên đường thì trâm thoa rơi rắc, hồng tía tơi-bời, sau cùng thấy Túy-Tiêu ngồi trên một chiếc kiệu căng riềm lụa hoa, đi qua dưới rặng liễu. Sinh muốn chạy đến than-thở, nhưng thấy những người cùng đi với nàng đều là bậc quyền-quý, không dám đường-đột, chỉ đắm-đuối nhìn và ứa hai dòng lệ, không nói được một lời nào.

Nhân Túy-Tiêu trước có nuôi đôi chim yểng, một hôm sinh trỏ đôi chim mà bảo rằng:

— Chúng mầy là loài vật nhỏ, còn được suốt ngày quấn-quít với nhau, không phải như ta lạnh-lùng chiếc gối. Ước sao chúng mầy nhẹ tung đôi cánh, vì ta đưa đến cho nàng được một phong thư.

Con chim yểng nghe nói, kêu lên và nhẩy-nhót như dáng muốn đi. Sinh bèn viết một phong thư, buộc vào chân nó. Thư rằng:

昨 者 柳 音 一 過
Tạc giả liễu âm nhất quá
道 達 無 由
Đạo đạt vô do
寄 雙 眼 於 片 時
Ký song nhỡn ư phiến thời
曾 咫 尺 而 千 里
Tằng chỉ xích nhi thiên lý
始 信 候 門 之 似 海
Thủy tín hầu môn chi tự hải
第 嫌 客 思 之 如 秋
Đệ hiềm khách tứ chi như thu

備 述 舊 由
Bị thuật cựu do
倍 增 深 感
Bội tăng thâm cảm
憶 昔 我 陪 詩 席
Ức tích ngã bồi thi tịch
子 侑 歌 筵
Tử hựu ca duyên
不 勞 綠 綺 之 彈
Bất lao lục ỷ chi đàn
辱 荷 紫 雲 之 惠
Nhục hạ Tử-Vân chi huệ
笑 未 酬 於 繾 綣
Tiếu vị thù ư khiển quyển
恨 已 早 於 分 飛
Hận dĩ tảo ư phân phi
鴻 別 燕 而 秋 聲
Hồng biệt yến nhi thu thanh
雲 愁 秦 而 暝 色
Vân sầu Tần nhi mính sắc
一 則 暖 流 蘇 之 帳
Nhất tắc hoãn lưu tô chi trướng
一 則 寒 糊 紙 之 衾
Nhất tắc hàn hồ chỉ chi khâm
但 貪 綉 幕 之 歡
Đãn tham tú mạc chi hoan
豈 念 書 樓 之 苦
Khởi niệm thư lâu chi khổ
每 聽 短 牆 滯 雨
Mỗi thính đoản tường trệ vũ,
廢 壁 寒 螿
Phế bích hàn tương

長 天 霜 雁 之 征 離
Trường thiên sương nhạn chi chinh ly
寂 宵 風 笛 之 唱 晩
Tịch tiêu phong địch chi xướng vãn
遂 乃 含 情 不 語
Toại nãi hàm tình bất ngữ
掩 卷 長 吁
Yểm quyển trường hu
對 景 關 懷
Đối cảnh quan hoài
不 能 已 已
Bất năng dĩ dĩ
噫 許 虞 候 之 不 作
Y Hứa Ngu hầu chi bất tác
崐 崙 奴 之 已 非
Côn lôn nô chi dĩ phi
應 無 反 壁 之 期
Ưng vô phản bích chi kỳ
空 負 尋 芳 之 約
Không phụ tầm phương chi ước
爰 憑 寸 楮
Viên bằng thốn chử
用 寫 哀 篇
Dụng tả ai thiên

Dịch:

Kiện qua dưới liễu hôm nào,
Vội-vàng chẳng kịp đưa trao một lời,
Trông ai nước mắt thầm rơi,
Tấc gang bỗng cách đôi nơi mịt-mùng.
Cửa hầu sâu thẳm nghìn trùng,
Sớm hôm khách những riêng lòng ngẩn-ngơ,
Tình xưa kể đến bao giờ,
Cảm sầu mọi mối như tơ rối bời.

Thơ ngâm nhớ bữa tiệc mời,
Giọng ca lanh-lảnh để người như say.
Cung đàn nào đã so dây,
Giai-nhân bỗng được trao tay rước về.
Tình sâu chưa kịp giãi-giề,
Bắc nam vội đã chia-lìa khá thương.
Chim hồng buồn-bã kêu sương,
Mây Tần thăm-thẳm xa buông tối mù.
Người nương trướng gấm êm ru,
Người ôm một mảnh chăn cù giá đông.
Ham vui nệm tía màn hồng,
Biết chăng kẻ chốn thư-phòng thương đau.
Mưa tường dế vách họa nhau,
Nhạn tan khóc sớm, địch sầu thổi khuya,
Lặng ngồi gấp sách ủ-ê,
Lòng này cảnh ấy khuây đi được nào.
Côn-Nô, Hứa-Tuấn[4] nơi nao?
Tìm hương, trả bích[5] còn ao-ước gì?
Mảnh tiên viết gửi trao đi,
Đau-thương kể nỗi vân-vi với người,

Con chim yểng bay đi, đến đậu ở màn Túy-Tiêu. Nàng được thư, bèn giở giấy Tiết-Đào[6] dấp bút Lâm-xuyên[7], viết một bức thư để trả lời. Thư rằng:

妾 翠 綃 少 倚 市 門
Thiếp Túy-Tiêu thiếu ỷ thị môn
長 投 樂 籍
Trưởng đầu nhạc tịch
調 歌 接 曲 徒 誇 河 古 之 風 流
Điều ca tiếp khúc, đồ khoa Hà-hữu chi phong-lưu
舉 按 齊 眉 未 識 孟 光 之 態 度
Cử án tề my, vị thức Mạnh-Quang chi thái-độ
誰 知 好 席
Thùy tri hảo tịch
便 是 良 媒
Tiện thị lương môi
綠 綺 琴 心 不 假 長 卿 之 調
Lục ỷ cầm tâm, bất giả Trường-khanh chi điệu
華 堂 詩 句 酷 憐 杜 牧 之 才
Hoa-đường thi cú, khốc linh Đỗ-Mục chi tài

自 喜 針 芥 之 有 緣
Tự hỷ châm giới chi hữu duyên
深 慶 藤 蘿 之 得 托
Thâm khánh đằng la chi đắc thác
天 台 客 逢 客 未 盡 深 歡
Thiên-thai khách phùng khách, vị tận thâm hoan
章 臺 人 送 人 載 將 離 恨
Chương-đài nhân tống nhân, tái tương ly hận
佳 偶 翻 成 怨 偶
Giai-ngẫu phiên thành oán ngẫu
好 緣 轉 作 惡 緣
Hảo duyên chuyển tác ác duyên
恥 忍 棲 鴉
Sỉ nhẫn thê nha
懼 頻 打 鴨
Cụ tần đả áp
出 入 起 居 之 際 未 免 從 權
Xuất nhập khởi cư chi tế, vị miễn tòng quyền
別 離 契 闊 之 懷 不 勝 感 舊
Biệt ly khế khoát chi hoài, bất thăng cảm cựu
惟 餘 翠 蛾 倦 掃
Duy dư thúy nga quyện tảo
綠 鬢 慵 梳
Lục mấn dung sơ
粉 壁 燈 殘 傷 春 腸 斷
Phấn bích đăng tàn, thương xuân trường đoạn
香 奩 繡 倦 別 淚 痕 多
Hương liêm tú quyện, biệt lệ ngân đa
昨 承 寄 雁 之 書
Tạc thừa ký nhạn chi thư
倍 切 離 鸞 之 想
Bội thiết ly loan chi tưởng

雖 韓 翃 之 柳 暫 折 長 條
Tuy Hàn Hoành chi liễu, tạm triết trường điều
然 合 浦 之 珠 當 還 故 郡
Nhiên Hợp-phố chi châu, đương hoàn cố quận
悠 悠 心 緒
Du du tâm sự
書 不 盡 言
Thư bất tận ngôn

Dịch:

Thiếp xưa con gái nhà nghèo
Lớn lên ca-xướng học theo bạn-bầy.
Phong-lưu quen thú Hà-tây[8]
Chưa tường án Mạnh ngang mày[9] như ai.
Tiệc hoa một bữa khuyên mời,
Mối-manh duyên khéo an bài tự đâu.
Tràng-Khanh chưa gảy Phượng-cầu[10]
Mến tài Đỗ-Mục bởi câu Hoa-đường[11].

Duyên kim phận cải xe vương,
Những mừng dây sắn được nương bóng tùng
Thiên-thai một cuộc kỳ-phùng[12]
Thú vui lửa đượm hương nồng chưa bao.
Chương-đài cành liễu nghiêng chao,
Biệt-ly mang nặng biết bao oán-sầu,
Duyên mai hóa rủi ngờ đâu,
Ngậm hờn nuốt tủi chịu rầu cho qua.
Tòng quyền nấn-ná vào ra,
Tình xưa nghĩa cũ thiết-tha vẫn lòng.
Bẽ-bàng đổi khác tư-dong,
Tóc xanh biến chải, môi hồng biến tô.
Thương xuân, vách phấn đèn lu,
Trông gương ngấn lệ mơ hồ, ngại soi.
Tiện hồng thư mới tới nơi,
Chia loan càng xót-xa đời biệt-ly.
Liễu Hàn tạm bẻ vin đi,
Nhưng châu Hợp-phố phải về quận xưa[13],
Nỗi lòng trăm mối vò tơ,
Thư dài đến mấy vẫn chưa hết lời.

Túy-Tiêu từ đó buồn-rầu sinh ốm. Quan Trụ-quốc bảo:

— Chừng nàng vẫn còn nhớ anh chàng bán thơ phải không?

Nàng nói:

— Quả có như vậy. Tình sâu gắn-bó, hờn nặng chia-lìa, lời thề chung sống chưa phai, điều hẹn cùng già đã phụ. Nay thì Sở mưa Yên tạnh, liễu héo đào tươi, bằn-bặt xa nhau, hờn ôm thiên-cổ. Cho nên người xưa đã coi rẻ giàu-sang mà nhớ anh hàng bánh[14], xem khinh sung-sướng mà gieo xuống tầng lầu[15], thật là phải lắm.

Nói rồi nàng toan lấy chiếc khăn là thắt cổ tự-tử. Trụ-quốc nói dối rằng:

— Ta cũng đang nghĩ về việc đó lắm. Vậy nàng hãy cứ nên bình-tĩnh mà bảo-dưỡng thân-thể sớm muộn ta sẽ vời chàng họ Dư đến đây, để nàng được nối mối duyên xưa. Tội gì mà coi rẻ tính-mệnh, chết một cách chẳng vào đâu cả.

Nàng nói:

— Quả được như vậy thì thiếp xin vâng lời tướng công. Nếu không thì tính-mệnh này chỉ đến ngày hôm nay là hết.

Trụ-quốc bất-đắc-dĩ, phải vời Dư đến, dỗ-dành sẽ trả nàng Túy-Tiêu và bảo:

— Ta làm quan ngôi đến Thượng-công, quyền cao lộc hậu, việc khoản-đãi khách-khứa, mỗi ngày tốn phí đến hàng nghìn chuông thóc. Nay vời thầy đến là do ý tốt chứ không có ý xấu gì cả. Huống đất Trường-an này gạo châu củi quế, thầy lấy gì mà tiêu-dùng đủ. Vậy nếu thầy không ngại thanh tích thì nên cứ ở luôn đây cho đỡ tốn.

Bèn sai dọn một cái buồng nhỏ làm nơi đọc sách cho sinh, hằng ngày sai một ả tiểu-hoàn hầu-hạ. Mỗi khi có tiệc mời sinh vào dự, Trụ-quốc thường lấy lời dịu-dàng khoản tiếp; nhưng về việc Túy-Tiêu, tuyệt nhiên không nhắc-nhỏm đến. Sinh mon-men hỏi tới, Trụ-quốc gạt đi mà rằng:

— Mối tình yêu-thương, ai mà chẳng thế. Tưởng nàng nhớ thầy, cũng chẳng khác gì thầy nhớ nàng. Nhưng vì ít lâu nay nàng hơi khó ở, nên chưa thể ra cùng thầy tương kiến được. Thầy hãy cứ thong-thả, đi đâu mà vội.

Túy-Tiêu nghe sinh đã đến, cũng muốn được gặp, nhưng trong nhà nàng hầu vợ lẽ nhiều lắm, vả coi giữ nghiêm-ngặt, nên không có dịp nào tìm đến sinh được. Một hôm nhân buổi chầu sớm chưa tan, thừa lúc những nàng hầu vợ lẽ đi ngủ, nàng lén đến thư-phòng của sinh. Phải lúc sinh chạy đi đâu vắng, nàng thấy trên vách có đề hai bài thơ sau này:

I

小 階 破 履 落 苔 衣
Tiểu giai phá lý lạc đài y
客 舍 凄 涼 獨 掩 扉
Khách xá thê lương độc yểm phi
青 鳥 不 來 春 信 晩
Thanh điểu bất lai xuân tín vãn
莎 庭 漠 漠 又 斜 暉
Sa đình mạc mạc hựu tà huy.

Dịch:

Trước thềm giày rách giẫm trên rêu
Cửa khép phòng văn lạnh hắt-hiu
Bằn-bặt chim xanh tin chẳng lại,
Sân không vắng-vẻ, bóng trời chiều.

II

月 殿 長 寒 鎖 翠 眉
Nguyệt điện trường hàn tỏa thúy my

僊 娥 何 日 是 歸 期
Tiên-nga hà nhật thị quy kỳ?
相 思 豈 直 無 佳 句
Tương-tư khởi trực vô giai cú
不 把 文 章 怨 別 離
Bất bả văn-chương oán biệt-ly.

Dịch:

Cung trăng lạnh-lẽo khóa mày ngài,
Tiên-tử bao giờ lại tái-lai?
Thương-nhớ thiếu đâu câu thắm-thía,
Ngại đem chữ nghĩa khóc thương hoài.

Nàng toan họa hai bài thơ ấy, nhưng đã nghe thấy tiếng ngọc-kha[16] về đến cổng rồi, thành ra không thể họa và đề được nữa.

Lại một hôm, nàng sai con hầu thân-tín của mình là Kiều-Oanh đến phòng sinh xin cùng ngủ. Sinh đuổi ra thì Kiều-Oanh nói:

— Túy-Tiêu nương-tử sai tôi như vậy. Nương-tử nghĩ lang-quân một mình buồn-tẻ, nên sai tôi đến hầu-hạ chăn-gối, cũng như nương-tử ở bên mình lang-quân.

Sinh bằng lòng. Từ đấy tin-tức mới thông mà tình khuê-môn mới đạt đến nhau được.

Bấy giờ sắp đến ngày trừ-tịch, sinh nhân lúc tiện, bảo với Trụ-quốc rằng:

— Tôi vì một mối ân-tình mà vào đây làm người khách trọ, song non Vu gang tấc, tin-tức chẳng thông, ngày tháng lữa-lần, năm lại gần hết. Cái việc trả châu[17] chẳng dám lại nói đến nữa. Chỉ xin được ở trước rèm một lần gặp mặt, trò chuyện với nhau một lát để rồi chia tay.

Trụ-Quốc bằng lòng mà nói:

— Chỉ sau vài hôm nữa, là đêm tốt lành, ta sẽ làm cái việc Xương-Lê thả nàng Liễu-Chi, Nghi-Thành buông nàng Cầm-Khách; quyết không ngăn-cấm sự ham-muốn của người khác để thỏa cái vui tai mắt của mình. Nhà thầy hãy nán đợi, đừng lo chậm muộn.

Sinh vâng dạ lui ra.

Đến đêm đã hẹn, sinh đốt đèn không ngủ ngồi chờ. Chừng một trống canh, bỗng nghe thấy tiếng giày lẹp kẹp ở bên khóm trúc; mở cửa ra đón, té ra là một con hầu áo xanh. Sinh hỏi nó đến làm gì thì ra nó bưng nước chè đến. Một lúc lại thấy ở trước hoa có tiếng sột sạt, xốc áo ra xem, lại thấy một ngươi đầy tớ trai. Chờ mãi đến quá nửa đêm, vẫn bặt tin hơi, rất là thất vọng. Ngày hôm sau, sinh bảo với Kiều-Oanh rằng:

— Nhờ em nói hộ với Túy-Tiêu: Ta nặng mối tình riêng, tin lời nói dối. Ai lại đến đòi gặp mặt để nói chuyện một lần cũng còn không được, vậy mà lại mong người ta mở cửa để thả cho nàng ra thì có đời nào! Nếu ta cứ ở mãi đây, vạn nhất lòng ghen nổi dậy, kế độc buông ra thì ta là thất cơ mà họ là đắc kế. Về đi thôi! Về đi thôi! Sao nên vì cớ muốn tìm ngọc châu mà lại đến nằm ở trước hàm con ly-long bao giờ[18].

Túy-Tiêu lại sai Kiều-Oanh đến bảo chàng:

— Thiếp sở-dĩ nấn-ná ở đây, chưa làm được một cái chết của nàng Lục-Châu, là chỉ vì còn có chàng. Nay chàng định về, phỏng có ước-hẹn với nhau điều gì không? Thiếp nghe lệ cũ bản-triều, đêm hôm mồng một tết, có đốt cây bông ở ngoài bờ sông, người trong kinh-thành, đều kéo ra xem đông nghịt. Nếu chàng chưa nỡ rẽ bỏ thì đêm ấy xin chờ đợi nhau. Loan chia phượng hợp, chỉ ở trong một chuyến này. Thiếp hãy xin hoãn để chờ.

Ý sinh bèn quyết. Trụ-quốc thấy sinh xin đi, lấy làm dễ chịu, tặng cho rất nhiều tiền bạc tơ lụa không tiếc tý gì. Sinh chở nặng một chuyến mà về. Dọc đường gặp người đầy tớ già, hắn bảo sinh rằng:

— Cậu có sự lo-buồn gì chăng? Sao người gầy võ đi khác hẳn ngày trước?

Sinh nói duyên-cớ và kể lời hẹn của Túy-Tiêu. Người đầy tớ già nói:

— Việc ấy dễ lắm, tôi xin hết sức giúp cậu.

Đến ngày mồng một, thầy trò cùng ra bến Đông, quả thấy Túy-Tiêu đứng xem ở trên bến. Người đầy tớ bèn đi lén vào rút cái dùi sắt trong tay áo ra, nện bừa vào đám người theo hầu, khiến bọn phu kiệu, phu dù đều chạy tan hết, rồi cướp lấy Túy-Tiêu đem đi. Hai người trông thấy nhau, nửa phần thương-xót, nửa phần mừng-vui; nhưng còn sợ Trụ-quốc biết ,đuổi theo bắt lại. Túy-Tiêu nói:

— Hắn chỉ là đồ yếu-hèn mà làm đến bậc Vệ, Hoắc[19]; kêu-xin chạy-chọt, lúc nào ở cửa cũng rộn-rịp những người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà, chồng-chất đầy-dẫy. Trừ ra gặp phải hỏa tai, của nả trong nhà ấy không biết có cách nào tiêu-mòn đi được. Nhưng tội đầy ác chứa, thế tất cũng chẳng được lâu. Có điều bây giờ họ còn đương thịnh, uy thế ấy cũng rất đáng sợ. Chi bằng ta ẩn hình náu vết, về trốn-lánh ở chỗ nhà quê, khỏi bày ra tai mắt mọi người để tránh cái vạ nguy-hiểm.

Sinh cho là phải, bèn bí-mật đưa nhau xuống hạt Thiên-trường, (Xuân-trường Nam-định) ở nhà một người bạn họ Hà. Năm Đại-trị thứ 7 Trụ-quốc vì cớ xa-xỉ mà phải tội. Sinh về Kinh-sư thi đỗ tiến-sỉ, vợ chồng ăn-ở với nhau đến già.


Lời bình

Than ôi! Người con trai bất trung, ông vua trung thường xấu-hổ lấy làm bề tôi, người con gái bất chính, kẻ sỉ trung thường xấu-hổ lấy làm vợ. Túy-Tiêu là một ả ca-xướng, chẳng là người chinh-chuyên, không hiểu Nhuận-Chi ham-luyến vì cái gì? Vì nàng hiền chăng? Nhưng hết là vợ họ Trương lại là hầu họ Lý[20]. Vì nàng đẹp chăng? Thì hết làm mê Hạ-sái lại làm hoặc Dương-thành[21]. Vậy mà lại khinh thường sự đi sự đến, nhẫn-nhục tới ở với người, sờ đầu cọp, vuốt râu cọp, xuýt nữa thì không thoát miệng cọp. Như chàng Nhuận-Chi, thực là một người ngu vậy.

   




Chú thích

  1. Ông Nguyễn Trung-Ngạn người làng Thổ-hoàng huyện Thiên-thi (nay Ân-thi) đỗ tiến-sĩ đời Trần, làm đến trọng chức.
  2. Vì câu thơ thứ ba có những chữ «Túy trẩm tiêu y».
  3. Chùa này nay đã mất, nền cũ ở vào khu Nhà Thờ lớn bây giờ.
  4. Côn-lôn Nô và Hứa-Tuấn là hai hiệp-khách đã giúp cho những lứa đôi bị chia lìa lại được sum-họp. Xem chuyện ở Tình-sử.
  5. Tình hương chữ là tầm-phương, xuất ở câu thơ «Tự thị tầm phương khứ hiệu trì» của Đỗ Mục, nói về việc duyên-lứa lỡ-làng. Trả bích xuất ở điển Trùng-Nhĩ nước Tấn. Trùng-Nhĩ chạy nạn sang Tào, Hy Phụ-Cơ đưa biếu mâm cơm và ngọc bích. Trùng-Nhĩ chỉ nhận mâm cơm còn trả lại ngọc bích. Từ đấy người ta dùng chữ phản bích (trả lại bích ngọc) để nói cái gì trả về chủ cũ.
  6. Tiết Tào đời Đường là một danh-kỹ ở đất Thục, hay làm những bài thơ ngắn, vì tiếc giấy nên cắt hẹp lại. Từ đấy những tài-tử trong Thục lấy thế làm tiện, cũng cắt những tờ giấy nhỏ để viết thơ, gọi là tờ giấy Tiết-Đào.
  7. Vương Hy-Chi đời Tấn là người viết chữ rất tốt, thường làm chức Nội-sử ở Lâm-xuyên, cho nên người ta thường nói ngòi bút Lâm-xuyên.
  8. Thuần Vu Khôn nói: « Vương-Báo ở đất Kỳ mà đất Hà-tây hát hay» (Mạnh-tử).
  9. Nàng Mạnh-Quang đời Hán, rất kính-trọng chồng là Lương-Hồng, mỗi khi dọn cơm cho chồng ăn, nâng cái án lên tận ngang mày.
  10. Tràng-khanh là tên tự của Tư-mã Tương-Như. Tương-Như gảy khúc đàn «Phượng cầu hoàng» mà lấy được nàng Trác Văn-Quân.
  11. Đời Đường, Đỗ Mục làm chức Ngự-sử phân-ty ở Lạc-dương, đến dự tiệc ở nhà vị đại-thần là Lý Nguyên. Nhà Lý có nhiều danh-kỹ hầu tiệc. Rượu say. Đỗ hỏi Lý: «Nghe nói nhà ngài có ả danh-kỹ là Tử Vân, chẳng hay là người nào vậy? ». Lý trỏ cho biết. Đỗ nhìn lúc lâu rồi nói: «Lời đồn không ngoa, ngài cho tôi quách». Bọn ca kỹ đều ngoảnh lại nhìn rồi phá lên cười. Đỗ nhân làm một bài thơ câu đầu là «Hoa-đường kim nhật ỷ duyên khai».
  12. Điển Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào núi Thiên Thai, gặp được người tiên.
  13. Phận bể quận Hợp-phố vốn sản ngọc châu. Gặp khi có quan thái-thú không tốt đến cai trị, ngọc châu biến mất. Sau quan thái-thú ấy đổi đi nơi khác, ngọc châu lại về.
  14. Ninh-vương nhà Đường chiếm cướp vợ của người hàng bánh, đã trải hàng năm mà người vợ vẫn nhớ thương chồng cũ. Ninh-vương gọi người hàng bánh đến, vợ chồng trông thấy nhau cùng ứa nước mắt, vương lại trả cho về đoàn tụ với nhau.
  15. Lục Châu là vợ lẽ của Thạch Sùng. Triệu vương Luân giết Thạch Sùng để cướp Lục Châu, Lục Châu không chịu, từ trên lầu gieo mình xuống đất tự tử.
  16. Trụ-quốc đi chầu về.
  17. Lâm-Tích thủa nhỏ lên Kinh, dọc đường trọ ở một cái quán tại Sái-châu, bắt được một túi ngọc châu đến mấy trăm hạt. Tích hỏi chủ quán xem ai trọ trước. Chủ quán bảo người trọ trước là Chu Trọng-Tân, Tích kể họ tên và chỗ ở của mình, dặn hễ Trọng Tân có đến thì bảo cứ đó mà tìm, mình muốn được gặp. Sau Chu Trọng-Tân quả đến tìm châu. Chủ quán bảo tìm đến Tích, Tích thấy nói đúng bèn đưa trả tất cả, Trọng Tân muốn đưa biếu một ít nhưng Tích nhất định không nhận. Trọng Tân bèn bỏ ra hơn trăm quan tiền làm chay ở chùa để cầu phúc cho Tích. Tích sau thi đỗ làm quan đến Thái Trung đại-phu; con là Đức Tân làm đến Lại-bộ thị-lang. Nhà ấy nối đời làm nên khoa hoạn mãi.
  18. Hà-thượng-Ông nhà nghèo, người con trai lặn xuống sông mò được một hạt châu giá đáng nghìn vàng. Ông bảo: « Ngọc châu này tất là ở hàm con ly-long. May mầy gặp lúc nó ngủ, chứ nếu nó thức thì đã chết với nó rồi, còn lấy đâu mà được ngọc nữa».
  19. Vệ Thanh và Hoắc Khứ-Bệnh là hai viên danh tướng đời Hán.
  20. Trương và Lý đây chỉ là những tên dùng để thí-dụ, do câu «Trương lang phụ nhi Lý lang thê».
  21. Dương-thành, Hạ-sái là tên hai huyện thuộc đất nước Sở đời Xuân-thu, là nơi các quý công-tử được phong đến đấy. Bài phú của Tống-Ngọc có câu: « Hoặc Dương-thành, mê Hạ-sái »,