Trở binh hành - 阻兵行
của Nguyễn Du
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

金鏘鏘鐵錚錚
車馬馳驟雞犬鳴
小戶不閉大戶閉
扶老攜幼移入城
本地六月至九月
滑濬二縣齊稱兵
賊殺官吏十八九
滿城西風吹血腥
更有山東直隸遙相應
白蓮異術多神靈
州官聞賊至
挑燈終夜籍民丁
州弁聞賊至
磨礪刀劍戛戛鳴
州人聞賊至
三三五五交頭細語聲咿嚶
行人遠來不解事
但聞城外進退皆炮聲
河南一路皆振動
羽檄急發如飛星
滾滾塵埃蔽天日
步騎一蹤復一橫
騎者彎角弓
長箭滿壺白羽翎
步者肩短槊
新磨鐵刃懸朱纓
又有新點丁壯之兵器
削竹為鎗皮上青
大車載弓
小車裝尖釘
終日往來無暫停
數百里地遍戈甲
道路壅塞無人行
長送長嘆短送默
進退維谷難為情
昨日黃河水大至
五日無食棲沙汀
今日衛州阻盜賊
不知前路何時清
安得風車日萬里
飛身一息來天京
吾聞內顧頻年苦荒旱
只有春作無秋成
湖南河南久無雨
自春徂秋田不耕
大男小女頻饑色
糠枇為食藜為羹
眼見饑莩死當道
懷中棗子身邊傾
空戶壁上有查字
數百餘戶皆饑零
小民不忍寒且饑
苟圖飽燠身為輕
黃池弄甲不足道
稍加存恤當自平
民死在歲不在我
勿得欺心蔽聖明
昨見新鄭城門粘榜示
按戶給粟蘇殘氓
黃河以北麥又熟
百日而輩妻子皆得生
歸來歸來勿作死
撫官惠保如父兄

Kim tương tương, thiết tranh tranh
Xa mã trì sâu, kê khuyển minh
Tiểu hộ bất bế, đại hộ bế
Phù lão huề ấu di nhập thành
Bản địa lục nguyệt chí cửu nguyệt
Hoạt, Tuấn nhị huyện tề xưng binh
Tặc sát quan lại thập bát cửu
Mãn thành tây phong xuy huyết tinh
Cánh hữu Sơn Đông, Trực Lệ dao tương ứng
Bạch Liên[1] dị thuật đa thần linh
Châu quan văn tặc chí
Khiêu đăng chung dạ tịch dân đinh
Châu biền văn tặc chí
Ma lệ đao kiếm giát giát minh
Châu nhân văn tặc chí
Tam tam ngũ ngũ giao đầu tế ngữ thanh y anh
Hành nhân viễn lai bất giải sự
Đản văn thành ngoại tiến thoái giai pháo thanh
Hà Nam nhất lộ giai chấn động
Vũ hịch cấp phát như phi tinh
Cổn cổn trần ai tế thiên nhật
Bộ kỵ nhất tung phục nhất hoành
Kỵ giả loan giác cung
Trường tiễn mãn hồ bạch vũ linh
Bộ giả kiên đoản sáo
Tân ma thiết nhận huyền chu anh
Hựu hữu tân điểm đinh tráng chi binh khí
Tước trúc vi thương bì thượng thanh
Đại xa tải cung chước
Tiểu xa trang tiêm đinh
Chung nhật vãng lai vô tạm đình
Sổ bách lý địa biến qua giáp
Đạo lộ ủng tắc vô nhân hành
Trường tống trường thán, đoản tống mặc
Tiến thoái duy cốc nan vi tình
Tạc nhật Hoàng Hà thủy đại chí
Ngũ nhật vô thực thê sa đinh
Kim nhật Vệ Châu trở đạo tặc
Bất tri tiền lộ hà thời thanh
An đắc phong xa nhật vạn lý
Phi thân nhất tức lai thiên kinh
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành
Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ
Tự xuân tồ thu điền bất canh
Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc
Khang tì vi thực lê vi canh
Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo
Hoài trung táo tử thân biên khuynh
Không ốc bích thượng hữu "tra" tự[2]
Sổ bách dư hộ giai cơ linh
Tiểu dân bất nhẫn hàn thả cơ
Cầu đồ bão úc thân vi khinh
Hoàng trì lộng giáp[3] bất túc đạo
Sảo gia tồn tuất đương tự bình
"Dân tử tại tuế bất tại ngã"[4]
Vật đắc khi tâm tế thánh minh
Tạc kiến Tân Trịnh[5] thành môn niêm bảng thị
Án hộ cấp túc tô tàn manh
Hoàng Hà dĩ bắc mạch hựu thục
Bách nhật nhi bối thê tử giai đắc sinh
Quy lai quy lai vật tác tử
Phủ thần huệ bảo như phụ huynh

Đồ đồng đồ sắt leng keng loảng xoảng
Xe ngựa chạy rầm rập, gà chó kêu
Nhà nghèo không đóng cửa, nhà giàu đóng cửa
Dìu già dắt trẻ dời vào trong thành
Đất này từ tháng sáu đến tháng chín
Hai huyện Hoạt, Tuấn cùng nổi binh
Quan lại mười người, giặc giết tám chín người
Đầy thành gió tây thổi mùi máu tanh
Lại thêm Sơn Đông, Trực Lệ từ xa hưởng ứng
Bạch Liên giáo có nhiều phép thuật thần linh
Quan châu nghe tin giặc đến
Khêu đèn suốt đêm lập sổ đinh
Quan võ nghe tin giặc đến
Mài dao liếc kiếm nghe chối tai
Dân trong châu nghe tin giặc đến
Túm ba, tụm năm châu đầu nói xì xào
Khách từ xa đến không hiểu chuyện gì
Chỉ nghe ngoài thành lui tới đều theo tiếng pháo lệnh
Cả miền Hà Nam đều chấn động
Hịch lệnh cấp tốc như sao bay
Bụi cuốn che lấp mặt trời
Bộ binh kị binh chạy dọc ngang
Kị binh giương cung sừng
Tên dài gắn lông chim trắng để đầy bầu
Bộ binh vác giáo ngắn
Mũi thép mới mài, tua đỏ treo lủng lẳng
Lại có binh khí của tráng binh mới gọi
Vót trúc làm giáo, vỏ còn xanh
Xe lớn chở cung dây
Xe nhỏ chở chông nhọn
Suốt ngày qua lại không ngừng
Mấy trăm dặm chỗ nào cũng có binh lính
Đường sá bế tắc, không người đi
Người đưa tiễn xa than dài, người đưa tiễn gần im lặng
Tới lui đều trong tình trạng khó khăn
Hôm qua nước Hoàng Hà dâng cao
Năm ngày không có ăn, đậu thuyền trên bãi sông
Hôm nay ở Vệ Châu giặc cướp chận đường
Không biết đường trước mặt bao giờ yên
Sao được xe gió một ngày đi vạn dặm
Bay vù một mạch đến thiên kinh
Ta nghe dân trong vùng nhiều năm khổ đại hạn
Chỉ có cầy cấy mà không có thu hoạch
Hồ Nam, Hà Nam đã lâu không mưa
Từ xuân tới thu ruộng bỏ không cày
Trai lớn gái nhỏ vẻ ốm đói
Tấm cám làm cơm, rau lê làm canh
Tận mắt thấy người đói chết trên đường
Hột táo trong bọc lăn bên mình
Nhà bỏ không, có chữ "tra" (xét) trên vách
Mấy trăm nhà đều trôi giạt vì đói
Dân mọn không kham nổi đã lạnh lại đói
Chỉ sao lo được no ấm mà coi nhẹ tấm thân
(Dân đói làm loạn chỉ như trẻ con) chơi đùa binh khí trong vũng ao, không đáng nói
Xét thương một chút là yên ngay
"Dân chết vì năm mất mùa, chẳng phải tại ta" (vua quan)
Đừng dối lòng che mắt thánh minh.
Hôm trước thấy cửa thành Tân Trịnh yết bảng cáo thị:
"Xét theo từng nhà mà cấp lúa cứu dân sống sót.
Phía bắc sông Hoàng Hà lúa mạch lại chín
Trăm ngày nữa vợ con các người đều được sống
Về đi về đi, chớ có liều chết
Quan phủ gìn giữ dân như cha anh"

   




Chú thích

  1. Bạch Liên giáo: một tổ chức bí mật có tính chất tôn giáo, có từ đời Nguyên, thường nổi binh đánh khắp nơi. Sang đời Thanh, Bạch liên giáo cũng phát triển
  2. Ý nói đã kiểm tra
  3. Điển lấy ở sách Hán thư, ý nói nhân dân vì đói rét mà nổi loạn, ví như trẻ con chơi đùa binh khí trong ao chuôm
  4. Dân tử tại tuế bất tại ngã: dân chết tại trời làm mất mùa chứ không phải tại ta. Điển lấy trong sách Mạnh Tử. Đó là câu nói của bọn quan lại, vua chúa ngày trước, thấy dân đói thì đổ tội cho trời làm mà không nhận là mình không mang lại hạnh phúc cho dân
  5. Đời Thanh, thành này thuộc phủ Khai Phong, tỉnh Hà Nam