MƠ TỔ MẮNG

Đêm xưa giấc mộng đang mơ màng,
Bỗng chiêm-bao thấy cụ Hồng-Bàng.
Tay cầm bầu nước xách lễ mễ,
Vai vác cái quốc đi vội vàng,
Người cụ cao lớn, mặt đỏ gấc,
Mắt sáng như sao, râu quá ngực.
Miệng rộng như bể, trán như non.
Hầm hầm dường có ý căm tức!
Quát lên một tiếng tầy sấm vang.
Người đang say ngủ đều kinh hoàng!
Mắt nhắm mắt mở chưa kịp dậy.
Cụ đã xừng xực tới đầu giường.
Tay cầm cái quốc gõ vào sỏ,
Tay cầm bầu nước giọi vào cổ.
Mắng rằng: « Bay đã tỉnh hay chưa?
Gà gáy tứ tung bay vẫn ngủ.
Cái quốc bỏ đó nhà đi đâu?
Bầu nước rốc ráo còn chi nao?
Bay không thức nhắp để giữ lấy,
Quốc ôi! nước ôi! đi đàng nào?
Người ta lấy quốc đi khai mỏ,
Người ta lấy nước nuốt vào cổ.
Quốc cùn lấy gì vỡ ruộng nương!
Nước cạn lấy gì tưới cây cỏ!
Quốc còn quốc mất bay không hay,
Nước còn nước hết bay giới thay,
Giang san cơ nghiệp ta ở đấy,

Thôi thôi ta chắc cậy gì bay?
Bay chẳng nghĩ công ta khó nhọc.
Mở núi khai sông những săn sóc,
Nhành hồng cỗi lạc mấy ngàn năm.
Truyền tử nhược tôn riêng một góc.
Trăm giai một bọc đều vuông tròn,
Nửa thời về bể, nửa về non.
Rồng con tiên cháu ngày đông đúc,
Lúa rừng cá bể mưu sinh tồn.
Khôn ngoan một ngày một bước tiến,
Dần dần thành một cõi văn-hiến,
Người trọng lễ nghĩa, thói thuần lương,
Giáo hóa ngàn năm không chút biến.
Cùng nhau gìn giữ nghiệp tổ tông,
Suốt vùng Ngũ-Lĩnh, sông Cửu-Long.
Mở mang cõi đất ngày ngày rộng,
Làm cho thêm rạng vẻ non sông.
Đàn-bà dễ mấy tay Trưng Triệu?
Mình cưỡi đầu voi, cờ nổi hiệu,
Quân Ngô, quân Hán đã kinh hồn.
Trông giải yếm đào tìm nẻo xéo.
Tài trai giỏi nhất lớp Trần, Lê,
Ra sức anh-hùng cũng gớm ghê!
Mấy trận Chi-Lăng cùng Vạn-kiếp,
Quân Tầu trông gió cút ngay về,
Như thế mới thật con cháu cụ,
Làm trai không thẹn. gái không hổ,
Bay sao chẳng nhắm cái gương xưa?

Luống chịu cúi đầu dàm buộc cổ,
Vẫy đuôi ngẩng mặt theo sau người,
Chờ chực nước rãi, trông ngóng hơi.
Nhà mình mà hóa đi ở đậu,
Cơm mình mà phải đi nhặt rơi.
Giết con cho mắm, nhắm mắt nuốt[1]
Chém cha chia canh, chẳng buốt ruột.[2]
Vỡ nhà nát nước dạ mần ngơ,
Sẩy nghé tan đàn không biết xót.
Gái đi rước khách giai đi hầu.
Cậy thế cậy thần lòe lẫn nhau.
Nhái nhớn chực những nuốt nhái bé.
Gầy róc xương thịt béo ép dầu.
Lại còn lên mặt những tấp tểnh,
Đem làm cỗ sẵn cúng ông hểnh.
Săn cầy săn cáo lên tân công,
Kiếm bát cơm thừa miếng cháy cạnh.
Xưa kia quan-lại có thế đâu!
Bây giờ quan-lại làm nên giầu.
Thi nhau bòn máu và hút mủ,
Đua mưu rộng ruộng cùng cao lầu.
Phá sạch hết cả nền lễ nghĩa,
Quên nhãng tất cả tính liêm-sỉ.

Tập theo nết sói với lòng beo.
Học những thói ma cùng tính quỉ.
Làm cho lây hại lũ thanh-niên,
Dần dà tập nhiễm thành thói quen.
Mặt tiên mũi rồng vẻ tuấn tú.
Vai trâu cổ ngựa đành ngu hèn,
Bay tự đào hang và phá tổ.
Trách nào diều tha và quạ mổ!
Mua Âu gió Mỹ nhiễm lâu vào,
Tam-Đảo Tản-Viên có ngay đổ,
Vậy mà bay khoe bay văn-minh,
Văn-minh đâu chỉ thấy chiến-tranh
Vậy mà bay cậy có nhân đạo,
Nhân-đạo đâu cướp cháo chúng-sinh!
Dù không kiếm cách để tự-lập,
Yếu hèn quyết có ngày chết rấp!
Bay ơi! đem con gửi quạ già.
Chắc đâu quạ già khỏi ăn cắp?
Ta chẳng mong bay chắc cậy người,
Ta chẳng mong bay cầu cứu ai,
Ta chỉ mong bay thương nước tổ,
Ngọt cùng chịu ngọt, cay cùng cay.
Ta cũng chẳng mong đảng cộng-sản.
Cộng-sản tổ thêm sinh rối loạn.
Cách mạnh ta đây cũng chẳng mong.
Cách-mạnh lại càng sinh họa hoạn.
Ta rất mong bay giữ hòa bình.
Lấy cách văn-minh để cạnh tranh.

Tích-cực chẳng xong dùng tiêu-cực.
Cố sao khôi phục quốc-quyền mình.
Ta rất mong bay trọng quốc-túy.
Khuyên nhau gìn giữ lấy luân lý,
Khiến cho người khỏi hóa ra ma.
Mất tiếng nghìn năm nước lễ nghĩa,
Ta rất mong bay thương lẫn nhau.
Chị ngã em nâng, trước bảo sau.
Tay đứt nhẽ nào ruột chẳng xót.
Máu chẩy chắc hẳn ruồi phải bâu,
Nước ta bây giờ của đã kiệt.
Danh-giáo cương-thường lại bại liệt.
Bay còn ngơ ngẩn ngóng gì ai?
Cá chạu chim lồng lo chẳng chết!
Bay coi Nhật-Bản cùng Xiêm-La,
Xưa kia danh-giá đâu bằng ta?
Mà nay đứng giữa vùng Đông Á,
Dân giầu nước mạnh bao vinh hoa,
Nay ta trông thấy lũ con cháu.
Mặt muội mày tro càng ngốt máu?
Liệu mà tỉnh tỉnh đứng lên mau.
Quốc đây, nước đây, nhận lấy cậu!»
Mở bừng mắt dậy hóa chiêm-bao.
Trông theo nào thấy cụ đâu nào?
Vội vàng cầm bút chép nhời cụ,
Đồng-bào, đồng-bào ta tính sao?

  1. Chúa Trụ giết ông Bá-ấp-Khảo là con vua Văn-vương làm mắm đưa vào ngục cho ông Văn-vương ăn.
  2. Hạng-Vũ đặt ông Thái-công là bố ông Hán-Cao lên thớt toan mổ, ông Hán-Cao rằng: bố tôi cũng như bố anh, nếu anh có mổ, thì chia cho tôi bát tiết canh.