Thảo thử hịch
1. Tượng mảng:[1] Lẽ trời sinh vật; Vật ấy nhiều loài.
2. Lấy câu thuận tính làm lành; Thấy chữ nghịch-thường mà ngán.
3. Nhỏ là loài ong-kiến, còn biết nghĩa quân-thần; Lớn là loài hổ-lang, cũng niệm tình phụ-tử.
4. Kìa như thước báo tai, cưu báo hỷ[2], đời cũng nhờ lành dữ đem tin; Nọ như khuyển thủ dạ, kê tư thần[3], người còn cậy sớm khuya an giấc.
5. Lò tạo-hóa nhúm-nhen khắp vật, vật nào hay khuấy-rối sự nhà; Thợ hóa-công đúc-nắng nhiều loài, loài nào dám xoi hao mạch nước?
6. Nay có loài chuột: Lông mọc xồm-xàm; Tục kêu xù, lắt.
7. Tính hay ăn vặt; Lòng chẳng kiêng-dè.
8. Chỗ ở-ăn hang lỗ nhiều bề; Đường qua lại đào ra hai ngách.
9. Nghe hơi động vội-vàng chạy mất, nhát quá mẹ cheo; Chờ đêm khuya sẽ lén-lút nhau, liếng hơn cha khỉ.
10. Gọi danh-hiệu: chuột xạ, chuột lắt, chuột xù, chuột cống, anh em dòng họ nhiều tên; Tra quán-chỉ[4]: ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi, bậu-bạn non sông lắm lối.
11. Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tối biết bao nhiêu; Vắn dài râu mọc hai chỉa, vắng mặt chủ lung-lăng đà lắm lúc.
12. Vả sáu-mươi giáp hoa đứng trước, lẽ thì thiện tính linh tâm; Thì mười hai chí tuế ở đầu, cũng đáng cư nhân do nghĩa.
13. Cớ sao lại đem lòng quỷ-quái? Cớ sao còn làm thói gian-tham?
14. Túi Đông-pha thường bữa tha gừng; Ruộng Nam-quách ghe phen cắn lúa.
15. Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang; Nệm mền của chúng che thân, cắn nát lại tha vào lỗ.
16. Hoặc nằm ngửa cắn đuôi tha trứng vịt, gây nên thằng tớ chịu đòn oan; Hoặc leo dây ngóng cổ gặm giò heo, để án con đòi mang tiếng khổ.
17. Vậy cũng gọi mình hay ngũ kỵ[5]; Vậy cũng khoe ngồi trước tam tài[6].
18. Chẳng xét mình vò nuốt dưới cầu; Lại quen lần mò ben vách.
19. Sách Lỗ-sử biên câu thực giác, vì miệng ai nên vua lỗi đạo thờ trời; Thơ Quốc-phong để chữ thực miêu[7], vì miệng ai cho nên dan xa lăng bỏ đất.
20. Ghe phen trách quần hư áo lủng, vì miệng ai cho nên chồng vợ giận nhau; Nhiều chỗ than vách ngã tường xiêu, vì miệng ai cho nên cha con đứt bẩn.
21. Nền xã-tắc[8] là nơi báo bổ, can chi mi đào lỗ, đào hang; Chốn miếu-đường là chỗ thanh-tán, cớ chi ngươi cắn màn, cắn sáo.
22. Kẻ trinh-nữ ghét thằng cuồng-bạo, cũng còn mang tiếng thử dâm; Án Long-đồ[9] tra đứa gian-tà, hãy còn mắc cái câu thử thủ[10].
23. Gối ngõa chú Nghiêu-phu[11] đà đến bể, khen cho quỷ-quái chẳng chừa; Gây phi long Linh-kiết đã tưng-bừng, sao hãy yêu-tinh không gớm.
24. Nham độn mười-hai ngôi tướng, cho hay thần hậu thật tướng gian; Diễn cầm bốn bảy vì sao[12], phải biết hư-nhật là sao dữ.
25. Sâu hiểm bấy tấm lòng nghiệt thử[13] cục cứt ra cũng nhọn hai đầu; Báu xót chi manh áo thử-cầu[14], tấm da lột không đầy ba tấc.
26. Tuy là tướng hữu bì hữu chất[15]; Thật là loài vô lễ vô nghi.
27. Luận tội kia đã đáng phân thi[16]; Thứ tay nọ cũng vì kiêng vật[17].
28. Giận là giận trộm đồ bàn Phật, trốn án mà xưng vương; Căm là căm cắn sách kẻ nho, đành lòng mà phá đạo.
29. Ngao-ngán bấy cái thân chuột thúi, biết ngày nào ô-thước[18] phanh-phui; Nực cười thay cái bụng chuột tham, uống bao thuở Hoàng-hà ráo cạn.
30. Ví có ngàn giòng nước khảm, khôn bề rửa sạch tội đa dâm; Dẫu cho muôn nén vàng đoài, cũng khó mua riêng hình bất xá.
31. Tội dường ấy đã nên ác quá; Ta tới đây há dễ nhiêu dung.
32. An tiên-phuông nấy gã rắn rồng; Phù tập-hậu sai chim bả-cắc.
33. Sắm-sửa binh sương giáp sắt; Trau-giồi ngựa gió xe trăng.
34. Giống trống sấm xuất binh; Phất cờ lau tập trận.
35. Đuốc Điền Đan sắm sẵn, để phòng khi un-đốt ngạch u-vi; Đèn Lý Bạch đái tùy[19] đặng chờ thuở xét soi hang uất-khúc.
36. Hàng hàng bố liệt thương đao; Nhập sào-huyệt phá hồ lỗ[20] chuột.
37. Phải nghe ta dặn, sắm-sửa đủ đồ: Cuốc xuổng đào hang; Phảng mai chận ngách.
38. Trả, trách, nồi-niêu rửa sạch, thượng kỳ: phù địch khái chi tâm[21]; Tiêu, hành, sả, ớt muối đâm, thứ dĩ: tạ chúng nhân chi khẩu[22].
39. Chớ để con nào sơ lậu, phải ra tay lấp lỗ tam bành; Đừng cho chúng nó sẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục-tặc.
40. Bốn phương đều ngợi chữ thăng-bình; Thiên-hạ cũng vui câu án đổ.
Chú thích
- ▲ Nghe rằng.
- ▲ Chim thước báo điềm dữ, chim cưu báo điềm vui.
- ▲ Chó giữ đêm, gà nhớ sáng.
- ▲ Quán-chỉ: Chỗ ở.
- ▲ Ngũ kỵ: Năm nghề (bay, leo, đi dạo, nằm hang, chạy).
- ▲ Tam tài: Ba đạo dựng lên trời, đất và người. Trời sinh ở hội tí.
- ▲ Thực miêu: Cắn phá lúa miêu.
- ▲ Xã-tắc: Kinh Lễ, thiên Nguyệt-lịnh chép: Con vua Cung-công là Câu-long hay trị viêc đất việc nước nên tế làm thần xã. Con vua Liệt-sơn tên Vãng-trụ, hay trồng lúa, nên sau tế làm thần tắc. Xã-tắc nói chung là việc chính-trị và sinh-hoạt của một nước.
- ▲ Bao Công.
- ▲ Do câu: Thử thủ lưỡng đoạn: Đầu chuột nên hai thế. Tích đời Hán Võ-đế, Điền Phân giận Hàn An-quốc làm chứng vụ Trường Nhụ nên nói An-quốc là đầu chuột nên mới hai đầu.
- ▲ Thiệu Khang Tiết
- ▲ Bốn bảy là hăm tám. Tức nhị-thập bát-tú; hăm tám vì tinh-tú.
- ▲ Chuột yêu nghiệt.
- ▲ Áo da chuột.
- ▲ Có da có vóc.
- ▲ Chia xẻ thân-thể.
- ▲ Ném chuột e bể đồ.
- ▲ Quạ diều
- ▲ Mang theo.
- ▲ Giặc cướp.
- ▲ Lấy bộ đồ lòng của kẻ địch.
- ▲ Làm cho thích miệng mọi người.