Thăng Long hành
Bão táp tơi bời trời cố quốc
Gió mưa ủ rũ đất danh đô
Tiêu điều cỏ lấp hoa Long Đỗ[1]
Lạnh lẽo trăng soi nước Kiếm hồ
Bút Tháp viết trời xanh chữ hận
Nghiên Đài tràn mực đậm màu thu
Cầu Thê Húc thẹn son xưa nhạt
Đình Trấn Ba[2] khoe phấn mới tô
Tháp đảo chơ vơ rùa nhớ kiếm
Tượng vườn[3] chót vót đá mong vua
Báo Thiên rêu phủ hoang sơ tháp
Núi Ngọc cây quanh ẩn ước chùa
Lãng Bạc sóng xao hờn oán cũ
Hành cung hương toả nhớ thương xưa
Cá tươi Ngô Thuỷ sen Tây Trúc
Nước mát Nghi Hà gió Vũ Vu
Rồng phượng gấm giong buồm ngự đỉnh
Ngựa xe bụi ngát lối hoa cù
Hưng vong triều đại tan làn khói
Kim cổ tang thương lạnh kiếp tro
Trúc Bạch một toà đồng Trấn Vũ
Đồng Nhân hai tượng đá anh thư
Chiến công dấu kín thành Lầu Bắc
Chính khí còn cao dấu Cột Cờ.
Sư biểu muôn đời nền tịch mịch
Cung tường trăm ngọn nửa hoang vu
Cương lồng chinh mã què chân hạc
Củi thổi quân lương chẻ chữ thờ
Khoa bảng bia còn hàng chữ đá
Khuê Văn gác sót bóng sao thưa
Thái Hà núi dựng đền Trung Liệt
Nước mất thành tan sống cũng thừa
Vạch ruột thề lòng trung đạo nghĩa
Nghiến răng nát lưỡi hận gian cừu
Cờ đào áo vải non Tây phất
Mà Đống Đa trông thấp thoáng gò
Ngùn ngụt Đồng Quang đằng sát khí
Đâu đây binh giáp tiếng reo hò
Đống xương vô định cao trăm thước
Giàu khó hiền ngu đắp một mồ
Lác đác lá vàng gieo cỏ áy
Oan hồn than khóc gió vi vu
Ai xây đế bá trên đài máu
Ai tưới vinh quang nước lệ châu
Mùi đạo thâm trầm hương húng Láng
Quân vương triều Lý thánh sư Từ
Bác nhường cho cháu ngôi thiên hạ
Phật hoá làm vua nẻo giác đồ
Đá sắp hai hòn chồng khắng khít
Chùa xây một cột đứng chơ vơ
Lên chơi ai cũng lom khom cúi
Chẳng khéo tu mà chẳng vụng tu
Đồng chảy muôn cân lò Ngũ Xã
Nung khuông đào chú đúc hư vô
Di Đà tượng nở cười viên mãn
Tay khéo Thần Quang quả phúc vo
Tìm hỏi Hà Đông mười cảnh thắng
Một dòng sông Nhuệ nước nông sờ
Chợ vui mậu quý phiên đông đúc
Dịp cũ hồng kiều bước ngẩn ngơ
Mây rợp ngàn thông kỳ ỷ khuất
Đạo nhân hái thuốc mãi bao giờ
Người gầy há phải vì không thịt
Đời tục riêng yêu khóm trúc bờ
Má đỏ răng đen cô gái Việt
Chia ngon giải ngọt nhớ lòng dưa
Nam Minh một vỗ chim tung cánh
Lầu Hạc nghìn năm mây phất phơ
Chiếu rượu say sầu thơ bạn gái
Cửa thuyền thêm cám cảnh làng nho
Mày ngài má phấn khôn qua số
Ngòi thỏ nghiên son dễ cuối mùa
Lão phố vẫn còn hương vãn tiết
Danh hoa thường phải nở trong mưa
Dòng Tương lai láng từ thu ấy
Dào dạt thu này lệ chửa khô
Cựu thức tân tri nhường bỡ ngỡ
Tà dương hảo cảnh khéo thờ ơ
Ôm đàn lắng khúc Nam Huân cũ
Lặng lẽ tay người lựa mối tơ
Tình trước không hoà hai giọt lệ
Duyên sau may hợp một dòng thơ
Gương hồ vắng bóng soi dương liễu
Ngùi ngậm ngâm từ Lê Bích Ngô
Ánh thép loáng hồng gươm tráng sĩ
Áo cừu rũ trắng bụi biên khu
Lông hồng non Thái bên khinh trọng
Chim Việt cành Nam gió ngựa Hồ
Đầu bạc đang reo hò tuyệt tái
Tuổi xanh chi đã khóc cùng đồ
Hoa cài động Bích hoa thơm mãi
Nước xuống nguồn Đào nước chảy mau
Hồng nhạn về nam trời trở rét
Trùng lai hoạ có đợi xuân sau
Nghìn năm văn vật nghìn hoa lệ
Nùng Nhị từ xưa những hẹn hò
Cho kẻ qua rồi càng quyến luyến
Cho người chưa đến cứ mong chờ
Ai quen thuộc nghĩ không ly cách
Ai lạ lùng không nghĩ hững hờ
Phúc Xá bãi phơi niềm ý biệt
Long Biên cầu nối đoạn tình xưa
Gia Lâm mấy dặm tình trường đoản
Ngọn cỏ dầm sương nặng khứ lưu
Hoa cúc để gầy thu đất Bắc
Tháng ngày vương một mối tương tư
Thăng Long hành chép cho ai giữ
Tờ mạc tần khai chữ ngọc thư
Dạ nguyệt hoặc qua tiên thị hạc
Hào lương tín lạc tử phi ngư
Chú thích
- ▲ Thần Long Đỗ. Truyền rằng ở Tây Hồ xưa kia giữa hồ có nùi đá nhỏ. Trên núi có hồ chín đuôi nhiễu hại dân chúng. Thần Long Đỗ tâu lên Thượng đế. Đế sai Long quân đánh giết. Núi liền sụt thành đầm. Theo Tây Hồ chí thì Tây Hồ thời cổ thuộc làng Long Đỗ. Hoa long đỗ tức hoa sen, vì Tây Hồ mọc nhiều sen.
- ▲ Một cảnh tân tạo ở cạnh hồ Hoàn Kiếm.
- ▲ Vườn có đền thờ và tượng vua Lê.