Tỳ bà hành  (816) 
của Bạch Cư Dị, do Phan Huy Vịnh dịch

Tỳ bà hành là bài thơ dài 616 chữ của Bạch Cư Dị về cuộc đời trôi nổi truân chuyên của kẻ ca kỷ đàn tỳ bà. Phần lời tựa do Nguyễn Hữu Vinh, phần thơ do Phan Huy Vịnh dịch nôm theo thể song thất lục bát nhưng vẫn giữ nguyên số lượng chữ. Lấy từ trang Việt-Học Thư-Quán, bản Quốc ngữ so sánh từ các cuốn của Dương Quảng Hàm (Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển, tr. 255-257) và Trần Trọng San (Ðường Thi, q. 2).

琵琶行并序 Lời tựa của tác giả
元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口,聞船中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然有京都聲;問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆曹二善才。年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲,曲罷憫然。自敘少小時歡樂事,今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。予出官二年 恬然自安,感斯人言,是夕,始覺有遷謫意,因為長句歌以贈之,凡六百一十六言,命曰琵 琶行。 Năm Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức Tư Mã ở quận Cửu giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn Tỳ Bà vọng lại. Nghe trong tiếng đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn trả lời rằng: “Tôi vốn là con hát, quê ở Trường An, học đàn Tỳ Bà với hai danh sư Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng làm con buôn [thường theo thuyền buôn đi đây đi đó]”. Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe. Ðàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm, thanh thản, yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương cho số phận lưu đày! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta, gồm 616 lời, gọi là Tỳ Bà Hành.
琵琶行 Tỳ Bà Hành Gảy Đàn Tỳ

潯陽江頭夜送客
楓葉荻花秋瑟瑟
主人下馬客在船
舉酒欲飲無管絃

醉不成歡慘將別
別時茫茫江浸月
忽聞水上琵琶聲
主人忘歸客不發

尋聲暗問彈者誰
琵琶聲停欲語遲
移船相近邀相見
添酒回燈重開宴

千呼萬喚始出來
猶抱琵琶半遮面
轉軸撥絃三兩聲
未成曲調先有情

絃絃掩抑聲聲思
似訴平生不得志
低眉信手續續彈
說盡心中無限事

輕攏慢撚抹復挑
初為霓裳後六么
大絃嘈嘈如急雨
小絃切切如私語

嘈嘈切切錯雜彈
大珠小珠落玉盤
間關鶯語花底滑
幽咽泉流水下灘

水泉冷澀絃凝絕
凝絕不通聲漸歇
別有幽愁暗恨生
此時無聲勝有聲

銀瓶乍破水漿迸
鐵騎突出刀鎗鳴
曲終收撥當心畫
四絃一聲如裂帛

東船西舫悄無言
唯見江心秋月白
沈吟放撥插絃中
整頓衣裳起斂容

自言本是京城女
家在蝦蟆陵下住
十三學得琵琶成
名屬教坊第一部

曲罷曾教善才服
妝成每被秋娘妒
五陵年少爭纏頭
一曲紅綃不知數

鈿頭銀篦擊節碎
血色羅裙翻酒汙
今年歡笑復明年
秋月春風等閑度

弟走從軍阿姨死
暮去朝來顏色故
門前冷落車馬稀
老大嫁作商人婦

商人重利輕別離
前月浮梁買茶去
去來江口守空船
繞船月明江水寒

夜深忽夢少年事
夢啼妝淚紅闌干
我聞琵琶已嘆息
又聞此語重唧唧

同是天涯淪落人
相逢何必曾相識
我從去年辭帝京
謫居臥病潯陽城

潯陽地僻無音樂
終歲不聞絲竹聲
住近湓江地低濕
黃蘆苦竹繞宅生

其間旦暮聞何物
杜鵑啼血猿哀鳴
春江花朝秋月夜
往往取酒還獨傾

豈無山歌與村笛
嘔啞嘲哳難為聽
今夜聞君琵琶語
如聽仙樂耳暫明

莫辭更坐彈一曲
為君翻作琵琶行
感我此言良久立
卻坐促絃絃轉急

淒淒不似向前聲
滿座重聞皆掩泣
座中泣下誰最多
江州司馬青衫濕

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhơn hạ mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền

Túy bất thành hoan thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh
Chủ nhơn vong quy khách bất phát

Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy
Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì
Di thuyền tương cận yêu tương kiến
Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến

Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai
Do bão tỳ bà bán già diện
Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh
Vị thành khúc điệu tiên hữu tình

Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ
Tự tố bình sanh bất đắc chí
Ðê my tín thủ tục tục đàn
Thuyết tận tâm trung vô hạn sự

Khinh long mạn nhiên mạt phục khiêu
Sơ vi Nghê thường hậu Lục yêu
Ðại huyền tào tào như cấp vũ
Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ

Tào tào thiết thiết thác tạp đàn
Ðại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt
U yết tuyền lưu thủy hạ than

Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt
Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết
Biệt hữu u sầu ám hận sanh
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh

Ngân bình sạ phá thủy tương bính
Thiết kỵ đột xuất đao thương minh
Khúc chung thu bát đương tâm hoạch
Tứ huyền nhứt thanh như liệt bạch

Ðông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn
Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch
Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung
Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung

Tự ngôn bổn thị kinh thành nữ
Gia tại Hà mô lăng hạ trú
Thập tam học đắc tỳ bà thành
Danh thuộc giáo phường đệ nhứt bộ

Khúc bãi tằng giáo thiện tài phục
Trang thành mỗi bị Thu Nương đố
Ngũ lăng niên thiếu tranh triền đầu
Nhứt khúc hồng tiêu bất tri số

Ðiền đầu ngân bề kích tiết toái
Huyết sắc la quần phiên tửu ô
Kim niên hoan tiếu phục minh niên
Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ

Ðệ tẩu tùng quân a di tử
Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố
Môn tiền lãnh lạc xa mã hy
Lão đại giá tác thương nhơn phụ

Thương nhơn trọng lợi khinh biệt ly
Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ
Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền
Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn

Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự
Mộng đề trang lệ hồng lan can
Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức
Hựu văn thử ngữ trùng tức tức

Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhơn
Tương phùng hà tất tằng tương thức
Ngã tùng khứ niên từ đế kinh
Trích cư ngoạ bịnh Tầm Dương thành

Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc
Chung tuế bất văn ty trúc thanh
Trú cận Bồn giang địa đê thấp
Huỳnh lô khổ trúc nhiễu trạch sanh

Kỳ gian đán mộ văn hà vật
Ðỗ quyên đề huyết viên ai minh
Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ
Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh

Khỉ vô sơn ca dữ thôn địch
Ẩu nha triều triết nan vi thính
Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ
Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh

Mạc từ cánh toạ đàn nhứt khúc
Vi quân phiên tác tỳ bà hành
Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập
Khước toạ xúc huyền huyền chuyển cấp

Thê thê bất tự hướng tiền thanh
Mãn toạ trùng văn giai yểm khấp
Toà trung khấp hạ thùy tối đa
Giang châu Tư Mã thanh sam thấp

   Bến Tầm Dương, canh khuya đưa khách.
   Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu.
      Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ty.

   Say những luống ngại khi hầu rẽ,
   Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
      Tiếng tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.

   Lần tiếng sẻ, hỏi ai đàn tá ?
   Lửng tiếng đàn, nấn ná làm thinh.
      Dời thuyền theo hỏi thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.

   Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ,
   Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
      Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.

   Nghe não nuột mấy dây bứt rứt,
   Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
      Chau mày, tay gảy khúc sầu,
Giãi bày mọi nỗi trước sau muôn vàn.

   Ngón buông, bắt, khoan khoan dìu dặt,
   Trước Nghê thường, sau thoắt Lục yêu.
      Dây to nhường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ như trò chuyện riêng.

   Tiếng cao thấp lần chen liền gảy,
   Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
      Trong hoa, oanh ríu rít nhau,
Suối tuông róc rách chảy mau xuống ghềnh.

   Tiếng suối lạnh, dây mành ngừng tắt,
   Ngừng tắt nên phút bặt tiếng tơ.
      Ôm sầu, đau giận ngẩn-ngơ,
Tiếng tơ lặng lẽ bấy giờ càng hay.

   Bình bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,
   Ngựa sắt giong, thét ngược tiếng đao.
      Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.

   Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
   Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
      Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời.

   Rằng xưa vốn là người kẻ chợ,
   Cồn Hà mô trú ở lân la.
      Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường đệ nhất sổ đà chép tên.

   Gã thiện tài sợ phen dừng khúc,
   Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
      Ngũ lăng, chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the tấm chuốc mua tiếng đàn.

   Vành lược bạc gãy tay nhịp gõ,
   Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
      Năm năm lần lữa vui cười,
Mãi gió trăng chẳng đoái hoài xuân thu.

   Buồn em trẩy, lại sầu dì thác,
   Lần hôm mai đổi khác hình dung.
      Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết đôi cùng khách thương.

   Khách trọng lợi khinh thường ly cách,
   Mãi buôn chè, sớm tếch miền khơi.
      Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng.

   Đêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ,
   Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
      Nghe đàn ta đã chạnh buồn.
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời,

   Cùng một lứa bên trời lận đận,
   Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
      Từ xa kinh khuyết bấy lâu,
Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.

   Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
   Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
      Sông Bồn gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ nảy mầm quanh hiên.

   Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
   Cuốc kêu sầu, vượn hót nỉ non.
      Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc chén son riêng ngừng.

   Há chẳng có ca rừng địch nội,
   Giọng líu lo, nhiều nỗi khó nghe.
      Tiếng tỳ nghe dạo canh khuya,
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.

   Hãy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,
   Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca.
      Tần ngần dường cảm lời ta,
Đến ngồi bắt ngón đàn đà kíp dây.

   Nghe não nuột khác tay đàn trước,
   Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.
      Lệ ai chan chứa hơn người ?
Giang châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.

   Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:
 

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.

 
Bản dịch:
 

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.