Từ hôn của Hồ Biểu Chánh
Chương II
Đối chủ nghĩa

Gần chợ Thái Bình có một dãy phố thấp và cũ, lại trở cửa về phía mặt trời lặn, nên sớm mai đã tám giờ rồi, mà trong phố vẫn còn lờ mờ, không được sáng sủa.

Cậu Châu Tất Ðắc ở chung với hai người bạn đồng song, tại căn phố đầu trong, về dãy phố nầy. Hai người bạn ấy, một người tên là Lê Võ Lộ, làm giáo sư ở trong một trường tư ở Sài Gòn, còn một người tên là Nguyễn Tự Cao, giúp việc trong một hãng buôn, mà hay tập làm văn, nên đã có danh ít nhiêu trong làng văn.

Ba người không có vợ, chỉ có mướn một đứa nhỏ ở đặng coi nhà và sai vặt mà thôi. Thường thường ba người hay dắt nhau đi ăn cơm tiệm, còn bữa nào ở nhà thì sai thằng nhỏ đi mua cơm và đồ ăn đem về ăn.

Sớm mai nầy, nhằm chúa nhựt nên ba người đều ở nhà.

Tất Ðắc mặc một bộ đồ “Pyjama” bằng lụa trắng có sọc xanh, nằm trên một cái “divan” lót phía trong vách, tay ôm cây đờn “Mandoline” mà rao nho nhỏ.

Võ lộ thì mặc quần Tây với một cái áo sơ mi[1] cụt tay, ngồi tại bàn viết để tại cửa sổ bên phía tay mặt mà coi nhựt báo.

Còn Tự Cao thì mặc đồ Tây bằng nĩ xám có sọc đen mà mình đã thấy Tất Ðắc mặc đi chơi trong chợ đêm hôm đó. Cậu chấp tay sau đít đi qua đi lại trong nhà, cúi mặt chăm chỉ ngó mũi giày, một lát thấy chau mày, một lát thấy gục gặc đầu, bộ đương suy nghĩ một việc gì quan hệ lắm.

Trong nhà chẳng có tiếng nói nào hết, chỉ nghe tiếng đờn của Tất Ðắc rỉ rả, với tiếng giày của Tự Cao cốp cốp mà thôi. Thình lình Tự Cao nói lớn rằng: “Thiệt không có xứ nào như đất Sài Gòn nầy”.

Võ Lộ lại hỏi rằng:

- Ðất Sài Gòn nầy làm sao?

- Tính viết một cuốn sách đặng giải bày cái chủ nghĩa của mình, nên muốn kiếm một chỗ thanh tịnh để suy nghĩ mà lập trụ, kiếm hết sức mà không được.

- Dữ hôn! Tưởng là việc gì ở đâu! Thứ suy nghĩ ở chỗ nào lại suy nghĩ không được, cần gì phải kiếm chỗ thanh tịnh. Toa[2] hay lập dị quá!

- Xe cộ rầm rập, thiên hạ ồn ào, làm sao mà nghiên cứu chính lý, hoặc phát giác tư tưởng cho được.

- Cần gì! Mỏa[3] muốn suy nghĩ, thì dầu buổi sớm mai đứng giữa chợ Bến Thành, mỏa suy nghĩ cũng được. Họ ồn ào mặc họ, mình suy nghĩ thì tự mình, họ có can cập[4] gì tới mình.

- Toa quen cái thói “Vô khả, vô bất khả” của toa, nên toa làm được, chớ ai làm cho được.

- Toa muốn thanh tịnh thì vô trong vườn bách thú[5] mà ngồi.

- Rồi. Chúa nhựt trước mỏa đi rồi. Mỏa đi sớm lắm, mà vô đó mới ngồi chưa được năm phút đồng hồ thì kế thiên hạ nhào vô rần rần, đờn ông, đờn bà, con nít, săng đá[6], mạch lô[7] đủ hết, họ coi chim, họ chọc khỉ, làm mỏa rối trí quá, mỏa ghét mỏa đi về.

- Thôi thì vô vườn ông Thượng.

- Cũng rồi nữa, mỏa đi vô trỏng mới về đây. Họ dượt xe máy chạy vùn vụt, rồi tới đờn bà đi chợ nói chuyện om sòm, thấy mệt trí nghe nhức đầu muốn chết, suy nghĩ giống gì được.

- Toa khó quá! Hèn chi toa đặt tên Tự Cao thì phải lắm. Mà toa muốn viết sách đặng bày giải cái chủ nghĩa gì đó, toa nói cho mỏa nghe coi.

- Mỏa muốn giải cái chủ nghĩa “Tự cao” là cái chủ nghĩa mỏa thờ thuở nay, đặng cho công chúng hiểu mà đuổi theo, để tấn hóa cho mau lẹ.

- Thôi đi toa! Tưởng là toa giải cái chủ nghĩa nào, chớ cái chủ nghĩa “Tự cao” của toa đó, nếu toa xúi họ theo thì toa làm hại thiên hạ, chớ không phải toa giúp thiên hạ mau tấn hóa đâu.

- Sao mà hại?

- Toa xúi thiên hạ làm phách thì hại lắm chớ sao.

- Tự cao sao lại làm phách?

- Tự cao nghĩa là mình cho mình cho mình cao hơn thiên hạ hết thảy, như vậy không phải là làm phách hay sao?

- Toa dốt quá. “Tự cao” có phải là làm phách đâu. Chủ nghĩa “Tự cao” của mỏa hay mà lại có ích lắm. Người nào thực hành cái chủ nghĩa nầy sẽ vững lòng phấn chí mà bước trên đường đời. Mình biết tự cao thì dầu mình ở trong giai cấp nào, mình cũng không phiền, không hổ. Mình làm một anh cu li mà mình biết tự cao thì mình khỏe bụng mình, bởi vì mình coi mình cao hơn thiên hạ thì mình có kiêng nể, có dua bợ ai đâu. Ví như có một người nào họ khinh khi, hoặc hiếp đáp mình, thì mình cho người ấy ngu dại thấp thỏi hơn mình, nên mới khinh khi hiếp đáp mình như vậy, thì mình khỏi giận khỏi buồn, khỏi ngã lòng, khỏi thối chí.

- Toa cắt nghĩa như vậy không có được đâu. Mỏa sợ toa chạy trật đường rầy. Mà cái chủ nghĩa “Tự cao” thua cái chủ nghĩa “Vô khả, vô bất khả” của moa xa lắm. Nếu ta muốn viết sách mà tuyên bố chủ nghĩa của toa thà là toa bày giải chủ nghĩa của mỏa còn có ích hơn nhiều.

- Chủ nghĩa của toa là cái chủ nghĩa “xuôi xị” tuyên truyền làm chi.

- Không phải xuôi xị đâu toa. Hay lắm đa, ở đời mình phải tập tánh “vô khả, vô bất khả” cho được thì mình mới khỏi buồn. Ví như mình đương làm cu li, thình lình mình trúng số, mình nhảy lên làm phú ông cũng được. Mình đương làm làng, thình lình bị lột chức trở xuống làm dân cũng được. Mình muốn đi chơi, mà vợ ghen nó biểu ở nhà cũng được. Toa coi người tập tánh được như vậy có phải là khỏe trí hơn người tập tánh tự cao hôn?

- Ðể mỏa kiếm chỗ thanh tịnh mỏa nghiên cứu lại. Mà dầu thế nào chủ nghĩa của toa cũng thấp hơn chủ nghĩa của mỏa.

- Tại toa tự cao, nên toa mới nói vậy, chớ chủ nghĩa của mỏa không thấp đâu. Mà thôi, mỏa cũng vì chủ nghĩa mà chịu thấp phứt cho rồi, không hại gì.

- Toa đương cãi với mỏa, mà toa nói vậy, té ra toa cũng chưa chịu thua.

- Ối thôi, thua cũng vậy mà ăn cũng vậy, mỏa không cãi nữa để mỏa đọc nhựt trình.

- Toa không chịu thua, thôi để mỏa cậy anh Tất Ðắc phân xử giùm hai cái chủ nghĩa của hai đứa mình, coi cái nào cao, cái nào thấp. Anh Tất Ðắc, sao anh không nói chuyện chơi cứ nằm đờn hoài vậy anh?

Tất Ðắc nghe kêu thì ngồi dậy nói rằng:

- Cãi lẽ làm chi cho mệt trí, nằm nhịp cẳng đờn chơi không sướng hơn à?

Tự Cao nói rằng:

- Nè, tôi cậy anh làm giám cuộc, anh phân xử giùm thử coi cái chủ nghĩa “Tự cao” của tôi với chủ nghĩa “Vô khả, vô bất khả” của anh Võ Lộ, của ai hay của ai dở.

- Chủ nghĩa mà hay dở nỗi gì. Cái nào hợp với tánh tình, hoặc địa vị của mình, thì nó hay với mình, còn cái gì nó không hạp, tự nhiên mình coi nó dở. Ấy vậy, hay hoặc dở đều tùy theo con mắt của mỗi người, làm sao mà phân đoán việc hai anh tranh biện với nhau đó cho được.

- Tôi coi ý anh sao mấy bữa rày anh ít muốn nói chuyện, cứ nằm ôm cây đờn mà đờn hoài. Tại sao vậy?

- Có sao đâu. Tại không có chuyện mà nói giống gì.

Võ Lộ day lại hỏi:

- Bữa hôm qua anh đi coi chợ đêm vui hay không, sao anh không thuật chuyện nhe chơi?

Tất Ðắc chau mày suy nghĩ rồi buông cây đờn nói rằng:

- Ờ, hôm qua vô hội chợ có gặp một việc ngộ[8] quá, mà hôm nay quên thuật lại cho hai anh nghe chơi.

Tự Cao hỏi:

- Việc gì mà ngộ? Hôm khai mạc, tôi vô đó, tôi đi một vòng, tôi chán quá nên ra về liền.

- Tại anh quen tự cao, nên anh mới chán chớ. Phải mà bữa sau anh đi với tôi nữa thì anh tức cười chết.

- Anh lấy bộ đồ của tôi anh bận đi, thì tôi đi nữa sao được?

- Ờ, quên chớ. Nè, hôm đó tôi vô khỏi cửa kế gặp chị Cẩm Hương.

- Bà Ðốc học trường tư ở Cầu Kho đó phải không?

- Phải, tôi gặp chỉ tôi mới giễu sơ sơ ít tiếng chơi, mà coi bộ động chỉ quá. Chỉ muốn bít miệng tôi, nên chỉ o bế mời tôi lại gian hàng của chỉ đặng chỉ đãi bánh mứt.

- Anh có phước quá!

- Không phải được ăn bánh mứt mà thôi đâu. Chỉ còn tiến dẫn cho tôi làm quen với hai mẹ con cô Bạch Yến nào đó, chỉ chưng tôi là Bác Vật mới ngon chớ.

- À! Bây giờ tôi hiểu rồi! Tại anh làm quen với cô Bạch Yến, hèn chi anh động ái tình rồi hổm rày về nằm ôm đờn mà đờn hoài!

- Bậy nà! Không phải vậy đâu. Tôi là đá mà động ái tình nỗi gì. Ðể tôi nói chuyện tôi làm quen với cô Bạch Yến cho mà nghe.

- Chắc anh thả dê cho đi ăn chớ gì?

- Anh thờ chủ nghĩa “Tự cao” mà anh nói nghe thấp quá. Gặp gái mà thả dê ra thì hay ho gì. Tôi thấy cô Bạch Yến là gái tân thời, mà cô nói chuyện nghe lãng mạng nữa, tôi mới làm nghiêm cho cô kiêng nể chơi. Thiệt quả cô mắc bẫy. Cô thấy tôi làm tỉnh cô mới kiếm thế mà chọc ghẹo tôi. Tôi thừa cái dịp ấy tôi diễn giải chủ nghĩa “bất cần lao” của tôi, cô nghe cô chịu quá.

- Tự Cao với Võ Lộc nghe như vậy thì cười ngất.

Võ Lộc hỏi rằng:

- Anh nói cô đó nghe chủ nghĩa của anh thì cổ chịu, mà cổ chịu thế nào?

- Nghĩa là cổ phục chủ nghĩa bất cần lao, hai mẹ con đều phục hết, chừng từ giả nhau, lại mời tôi có rảnh lên nhà ở trên Tân Ðịnh chơi, đặng giải chủ nghĩa thêm cho rõ ràng.

Tự Cao rùn vai nói rằng:

- Anh kiếm tín đồ giỏi quá, tôi cũng phục anh nữa. Phải tôi dè như vậy, hôm đó tôi đi chơi với anh đặng tôi làm quảng cáo cho chủ nghĩa của tôi.

- Ờ, tôi cũng không dè tôi bày chuyện nói cho qua ngày giờ, mà lại có người thích nghe. Nếu hôm đó mà có đủ ba anh em mình thì chắc là còn vui hơn nữa.

- Vui mà sao hôm nay về nhà anh lại buồn?

- Có buồn chi đâu. Nè, mà chừng cô Bạch Yến từ giã mà đi rồi, chị Cẩm Hương lại hỏi tôi như muốn chỉ làm mai cho nữa chớ. Dễ tức cười không?

- Chuyện như vầy có cái gì đáng cười đâu mà tức cười. Như bọn mình đây thì con gái thấy tự nhiên thích lắm, có lạ gì mà cười.

- Thích mốc khỉ họ, chớ thích nỗi gì.

- Sao lại không thích?

- Gái nào nó vướng tụi mình thì chết đói không đủ cơm mà ăn, không có áo mưa mà bận chớ thích gì!

- Cần gì vật chất. Bàn luận việc đời với nhau cũng đủ no.

Võ Lộ la lớn lên rằng:

- Ê! Anh Tự Cao bây giờ cũng lãng mạng nữa chớ!

Tự Cao không thèm trả lời Võ Lô, lại hỏi Tất Ðắc rằng:

- Còn chị Cẩm Hương tỏ ý muốn làm mai rồi anh trả lời thế nào?

- Tô bác ngay.

- Sao vậy?

- Chỉ nói dóc chớ làm mai sao được.

- Thế khi chỉ liệu làm mai được, nên chỉ mới nói đó chớ.

- Khó lắm, chớ không phải dễ đâu. Bà già cô Bạch Yến bộ thiệt thà mà đúng đắn lắm. Nghe chị Cẩm Hương kêu bà bằng “bà Huyện”. Chỉ lại nói bà có nhà tốt, có phố cho mướn, có ruộng đất nữa, chắc là nhà giàu lắm, bởi vậy cô Bạch Yến đeo xoàn nhiều dữ.

- Nếu như vậy, thì là khó thiệt. Nhưng mà anh phải làm theo cái chủ nghĩa của tôi, đừng thối chí. Họ có nhiều tiền, mình có tài cao, họ có cái mình thiếu, mình có cái họ thiếu, họ cũng như mình, mà mình có tài là cái khó kiếm hơn tiền, thì mình cao hơn họ chớ không kém đâu mà anh sợ.

- Chủ nghĩa của tụi mình thì để bàn luận bậy với nhau mà chơi, chớ đem ra dùng với đời sao được. Mình nghèo quá, không có áo quần mà mặc, ăn buổi trưa không biết buổi chiều có ăn được nữa hay không. Tiền bạc đâu có mà cưới vợ, mà cưới nó về rồi làm sao mà nuôi nó.

Tự Cao nghe nhắc đến cảnh đớ, chàng hết dám đốc vô nữa.

Võ Lộ mới hỏi Tất Ðắc:

- Mà cô Bạch Yến đó xấu người hay đẹp?

- Ðẹp lắm!

- A! Tưởng là xấu người. Ối. Mà nếu chị Cẩm Hương làm mai được, cô Bạch Yến ưng nữa, thì anh sợ gì mà từ chối. Anh cứ làm theo chủ nghĩa của tôi đi, sao cũng được mà.

- Tôi có sợ gì đâu. Ai dám đi tới đâu thì tôi cũng dám đi tới đó vậy chớ.

- Thôi, thì anh đi kiếm chị Cẩm Hương mà chịu đi.

Tự Cao cản rằng: ”Ê! Bày như vậy không được, thấp lắm. Mình phải tự cao chớ, để cho người ta cầu mình mới qúy”.

Tất Ðắc dòm qua đường, thấy có một cái xe kéo ngừng ngay cửa và cô Cẩm Hương trên xe bước xuống rồi ngó dớn dác mà kiếm nhà thì cậu nói rằng : “Chết chưa! Chị Cẩm Hương đi kiếm tôi kia”, cậu nói rồi liền bước ra cửa mà tiếp khách.

Tự Cao dòm lại cái bàn để giữa nhà, thì trên bàn để lôn xôn xôn một đôi vớ, hai cuốn sách, một tờ nhựt trình, với một cái ly thì chàng bực mình, nên lật đật tom góp những vật ấy mà đem vô trong buồng, đặng tiếp khách cho có vẽ thanh nhã.

Cô Cẩm Hương bữa nay mặc quần lụa trắng với một cái áo màu xanh dương, tay ôm cái bóp da vàng, vừa thấy Tất Ðắc thì cô cười và nói rằng: “Hôm trước cậu chỉ nhà lôi thôi, tôi đi liều mạng mà trúng chớ”.

Tất Ðắc chào rồi mời cô vô nhà. Tự Cao với Võ Lộ đều đứng dậy thi lễ. Tất Ðắc tiến dẫn cho hai người biết nhau rồi cậu kéo một cái ghế mời cô Cẩm Hương ngồi dựa vào bàn giữa, cậu cũng ngồi ngang đó. Võ Lộ thì ngồi lại bàn viết mà coi nhựt trình, còn Tự Cao lấy một cuốn sách đem lại “divan” giở ra mà coi.

Cẩm Hương để cái bóp trên bàn, ngồi ngó cùng nhà rồi hỏi Tất Ðắc rằng:

- Té ra ba ông ở chung một nhà hay sao?

- Phải, ba anh em tôi ở chung.

- Hai ông đây có vợ hay chưa?

- Chúng tôi tu hết, có vợ sao được.

- Cậu chớ nói trặc trẹo hoài. Phải có đờn bà đặng người ta lo đi chợ nấu cơm cho mà ăn chớ.

- Ở đất Sài Gòn cần gì phải lo nấu cơm chị. Trong thành Săng đá mấy có đàn bà, mà lính cũng có cơm ăn vậy.

- Nói gì mướn đầu bếp sao bằng vợ.

- Muốn bằng vợ thì phải mướn đầu bếp đờn bà.

- Ê, đừng nói xàm nào.

- Nói thiệt chớ nói xàm. Thiên hạ họ mướn đờn bà ở nấu ăn thiếu gì.

- Cậu nói chuyện, cậu giễu cợt nghe phát ghét.

- Vậy mà có nhiều người ưa nghe tôi nói chuyện lắm đa. Họ nghe tôi nói chuyện cả giờ mà họ chưa đã thèm, họ còn ân cần mời tôi lên nhà nói nữa đặng cho họ nghe.

- Tôi biết mà. Cậu khỏi khoe. Hổm nay cậu suy nghĩ rồi hay chưa, sao không xuống trường học mà trả lời cho tôi biết?

- Suy nghĩ về việc gì?

- Việc tôi nói với cậu hôm trong hội chợ đó.

- Hôm đó chị nói cả trăm chuyện, tôi có nhớ chuyện gì đâu.

- Chuyện tôi muốn làm mai cho cậu đó mà.

- À, tưởng chuyện gì, chớ chuyện đó tôi suy nghĩ rồi.

- Suy nghĩ rồi cậu nhứt định sao đó? Cậu chịu hay không chịu?

- Không chịu.

- Tại sao mà không chịu? Cậu chê con Bạch Yến chỗ nào đâu, cậu nói cho tôi nghe thử coi.

- Tôi chê cô nhiều khoản lắm, mà có ba khoản nầy tôi chê gắt: 1) Cô là gái mới lớn lên mà nhan sắc cô quá đẹp. 2) Cô là con gái nhà giàu mà lại con một nữa. 3) Bà Huyện là má của cô chơn chất mà đúng đắn hết sức.

- Người ta như vậy mà chê nỗi gì?

- Tại như vậy nên tôi mới chê chớ, bởi vì ba tánh chất ấy không hạp với cái óc của tôi.

- Vậy chớ phải thế nào mới hạp?

- Nếu tôi phải cưới vợ, thì tôi kén chọn một cô cả tháng không có một cắc bạc ở trong túi mà không buồn, mặc áo cũ hoặc áo rách mà không hổ, nhịn đói cả ngày mà cũng không than. Chị có giỏi, chị kiếm người như vậy mà làm mai, thì tôi mới ưng.

- Cậu cứ giễu cợt hoài. Tôi nói thiệt chớ phải nói chơi với cậu hay sao mà cậu pha lững.

- Tôi cũng nói thiệt vậy chớ.

- Thôi, nói xàm hoài, mất thì giờ quá. Tôi hỏi gắt cậu, vậy chớ cậu muốn con Bạch Yến hay không? Như muốn thì tôi làm mai cho, bằng không thì thôi. Nói phứt một tiếng đặng tôi về.

- Mà cô Bạch Yến bận rách, nhịn đói, cả tháng không có một cắc bạc, cô chịu được hay không?

- Người ta là con nhà giàu, cái gì mà chịu đói, bận rách!

- Cô giàu mà tôi không giàu. Hễ cô chịu làm vợ tôi, thì cô phải ở theo tôi, thì chắc chắn cô phải nhịn đói, bận rách. Nếu cô dám chịu như vậy, thì tôi sợ gì mà chạy cô.

- Tôi tính làm mai chỗ đó cho cậu, vì tôi với cậu là chị em đồng hương, tôi thấy cậu không có chỗ ăn chỗ làm, tấm thân phải vất vả, tôi thương nên tôi muốn cho cậu có chỗ nương dựa, đặng sung sướng tấm thân một chút.

- Tại tôi thờ chủ nghĩa "bất cần lao" nên tôi không thèm làm việc chi hết, chớ phải tôi thất ngiệp đâu.

- Ðể tôi nói cho cậu nghe mà, cậu cứ giễu hoài.

Tự Cao muốn để cho cô Cẩm Hương nói hết công việc làm mai ra thế nào, nên can Tất Ðắc rằng: "Bà Ðốc lấy tình chị em mà đãi anh, vậy anh chớ nên nói giễu nữa chớ. Anh phải để cho bà Ðốc nói hết công chuyện, rồi như có chỗ nào không vừa ý anh, thì anh sẽ cải, có muộn gì".

Cô Cẩm Hương ngó Tự Cao mà nói rằng: "Cậu nầy thiệt là kỳ lắm mà. Tôi thương cậu, tôi muốn tính giùm việc trăm năm cho cậu mà cậu cứ giễu cợt hoài".

Tất Ðắc rùn vai mà cười. Cô Cẩm Hương nói tiếp rằng: "Hôm trước tôi đã nói với cậu, bà Huyện giàu lắm, tiền bạc nhiều, có nhà cửa tử tế lại có phố, có ruộng nữa. Bà có một mình con Bạch Yến mà thôi, nên bà cưng lắm, nó muốn gì cũng được hết. Cậu mà được vào nhà đó, thì cậu nằm không mà ăn, rồi cậu muốn thờ chủ nghĩa gì đó cậu thờ, khỏi làm việc chi hết. Người ta giàu có lại có một đứa con. Hễ mình cưới rồi thì về đó mà ở, dắt đi làm chi mà sợ chịu nhịn đói, bận rách".

Võ Lộ chen vào nói rằng: "Ðược như lời bà Ðốc nói đó thì hạp chủ nghĩa của anh Tất Ðắc lắm, có lý nào ảnh không chịu, nhưng còn ngại một điều nầy là người ta như vậy, không biết bà Ðốc làm mai mà người ta có ưng hay không chớ".

Cẩm Hương cười mà nói rằng:

- Nếu tôi liệu không được thì tôi có lãnh làm mai chi cho thất công. Thiệt chỗ đó không phải lơ mơ. Tuy cậu Tất Ðắc có danh con nhà quan, lại có học bên Tây, nhưng mà bây giờ cậu hết sự nghiệp, lại không có chỗ ăn chỗ làm, dễ gì mà nói người ta gả. Tôi chắc có một mình tôi làm mai được, là vì người ta tin cậy tôi lắm, hễ tôi nói thì người ta chịu.

- Như bà Ðốc nói đưọc thì tôi cũng chắc anh Tất Ðắc cũng sẽ ưng vậy chớ.

- Sao? Cậu ưng hay không? Nói phứt đi?

Tất Ðắc chím cười. Cậu suy nghĩ một hồi rồi nói với cô Cẩm Hương rằng:

- Thiệt tôi không tính cưới vợ, ngặt chị ép quá, nếu tôi không chịu thì mích lòng chị. Chịu thì tôi chịu, song tôi còn ái ngại một điều nầy: bình sinh tôi chẳng hề yêu cầu ai một việc gì. Nay chị lãnh làm mai cho tôi nói mà cưới cô Bạch Yến. Ví như cô ưng, thì chẳng nói làm chi. Nếu cô chê tôi, cô không ưng thì thất thể diện tôi quá.

- Xin cậu đừng lo, tôi hứa với cậu, thì tôi sẽ làm y như lời hứa.

- Chị hứa là hứa làm mai, còn sự nói được hay không được làm sao chị dám bảo kiết[9].

- Tôi bảo kiết, nếu tôi nói không được thì cậu kêu tôi bằng em, chớ đùng có kêu chị nữa.

- Thế thì cô Bạch Yến có chửa oan rồi hay sao mà chị phấn chấn quá vậy?

- Ê. Ðừng nói khùng nữa! Người ta là con nhà tử tế, khéo nói bậy nói bạ!

- Tử tế thì tử tế, song chuyện đó mình cũng phải coi chừng chớ.

- Cậu nầy nói chuyện nghe chết được!

- Không. Nói chuyện mà nghe, chớ dầu có chửa oan đi nữa, tôi nôm[10], tôi chẳng sợ gì. Tôi ngại là ngại chị nói không được rồi thất thể diện tôi.

- Tôi nói làm mai được. Như tôi nói được thì cậu mới tính làm sao với tôi?

- Nếu chị nói được thì chị tính thế nào tôi cũng chịu hết.

- Cậu phải đền ơn cho tôi hai ngàn đồng bạc, cậu chịu hay không?

- Ðược.

- Cậu làm giấy cho tôi cầm đi.

- Nãy giờ tôi giễu chơi với chị, chớ chuyện nầy không phải dễ đâu. Thân phận tôi như vầy mà tôi tính trèo cao quá, sợ phải té nặng.

- Biết ai là cao, còn ai là thấp, cậu? Cao thấp gì cũng tại nơi mình chớ.

Tự Cao chen vô nói rằng:

- Bà Ðốc nói lời ấy đúng lắm. Ở đời mình phải trọng lấy mình, mình phải cho mình cao chớ. Sao mà hạ mình rồi kiêng nể người ta.

Tất Ðắc trề môi lắc đầu rồi đáp rằng:

- Anh nói theo chủ nghĩa tự cao của anh. Anh nói như vậy là vì anh không thấy bà Huyện là má của cô Bạch Yến, chớ chi anh gặp bà như tôi gặp hôm trước, thì anh hết tự cao được.

- Bà cao thượng oai nghiêm lắm sao?

- Không phải vậy. Thường tôi gặp nhiều bà làm cao, làm nghiêm, tôi coi cũng như không, tôi có kể gì đâu, anh. Bà nầy không làm cao, không lập nghiêm, bà nói chuyện nghe ôn hòa chơn chất, bà giàu mà không chưng diện, bà cao mà không kiêu căng, mình thấy mình mới kiêng chớ.

- Nếu anh được làm rể nhà đó, anh có bà mẹ vợ như vậy, thì đúng lắm, còn ngại là sao?

- Bởi bà đứng đắn, nên tôi mới ngại. Mình đi nói vợ trong nhà như vậy, trước khi người ta chịu gả, tự nhiên người ta dọ dẫm coi mình là hạng người nào, gốc gác ở đâu, học có bằng cấp nào, bề làm ăn ra sao. Hỏi gốc gác thì tôi không lo, bởi vì dầu thế nào tôi cũng gốc con nhà quan. Còn hỏi tới mấy khoản kia, thì chắc tôi rớt liền, bởi vì tôi đi Tây học sáu bảy năm mà không có bằng cấp nào hết, còn bề làm ăn thì tôi mắc lo thờ chủ nghĩa “bất cần lao” nên không có nghề nghiệp, mới làm sao mà nói với người ta.

- Ờ, cái đó khó thiệt.

Cô Cẩm Hương nói rằng:

- Không khó đâu, tôi nhớ hôm trước tôi giới thiệu với mẹ con bà Huyện, tôi nói là Bác Vật phải không?

Tất Ðắc cười ngất rồi đáp rằng:

- Phải. Hôm trước chị kêu tôi bằng Bác Vật nghe ngon quá. Mấy cô tưởng Bác Vật thiệt, mấy cô chịu dữ.

- Thôi, Bác Vật lỡ rồi, thì Bác Vật luôn đi chớ đổi chức sao được.

- Ê! Chị tính thế đó hiểm nghèo lắm. Mình chưng Bác Vật, nếu người ta hỏi Bác Vật về khoa gì, canh nông hay kiều lộ hay là điện khí, rồi mình mới nói khoa nào?

- Mình nói khoa thương mãi được hôn?

- Trời ơi! Bác Vật gì mà Bác Vật thương mãi chị?

- Thôi thì nói Bác Vật về khoa canh nông được hôn?

- Mình nói như vậy, người ta đến Sở canh nông người ta hỏi rồi lòi chành[11] còn gì?

- Không có hỏi đâu. Mẹ con bà Huyện tin tôi lắm. Mà ở nhà hai mẹ con Bạch Yến có anh em trai đâu mà sợ họ tọc mạch đi hỏi đon hỏi ren[12].

- Tuy không có anh em, song người ta cũng có bà con chớ. Ví như có một người bà con họ đi hỏi dọ rồi làm sao?

Cẩm Hương ngồi suy nghĩ một lát rồi cô hỏi Tất Ðắc rằng:

- Thôi để tôi nói cậu có bằng cấp mà đi tìm mỏ vàng, mỏ bạc đó, nói như vậy được hôn?

- Xứ mình đâu có mỏ vàng, mỏ bạc mà mình chưng Bác Vật về khoa đó?

- Bởi không có nên họ bít lối họ mới hết hỏi. Tôi định để tôi nói như vầy: Cậu qua bên Tây, cậu học cái môn tìm mỏ vàng, mỏ bạc. Cậu thi đậu Bác Vật, cậu về hôm tháng giêng, ngặt trong xứ mình không có mỏ nên cậu dùng tài học của cậu không được. Mới hôm tháng trước đây có một hội tư bổn ở bên Tây họ sai một người quản lý qua Sài Gòn đặng tổ chức cuộc tìm mỏ vàng, mỏ bạc phía bên Lèo Thượng. Người ấy biết tài cậu, nên kiếm cậu mà cậy quản xuất cuộc tìm mỏ, hứa cho cậu ăn lương mỗi tháng sáu trăm đồng, lại hễ đi tìm được, hội xuất vốn khai mỏ mà có lời thì hội sẽ cho cậu huê hồng 2 phần trăm trong số lời mỗi năm. Ông quản lý đã gởi thơ về cho Ban trị sự bên Pháp, đợi hễ Ban trị sự trả lời thì cậu sẽ lên Lèo Thượng mà tìm mỏ. Tôi tính nói như vậy đó, cậu coi được hay không?

Tự Cao với Võ Lộ đồng khen Cẩm Hương tính hay, nói như vậy thì không thế nào họ dọ dẫm cho ra mối nổi. Tất Ðắc chúm chím cười rồi hỏi cô Cẩm Hương rằng:

- Chị tính nói như vậy thì nghe được lắm. Mà nói đợi bên Pháp trả lời rồi mình lên Lèo, song bên Pháp không trả lời trong một hai tháng chẳng nói làm chi, đến năm bảy tháng cũng không trả lời trả vốn chi hết, rồi mình mới nói làm sao nữa?

- Ối, hễ cưới được rồi thì thôi, dầu sao có đổ bể cũng không hại gì. Cậu là người lanh lợi cậu kiếm chuyện cậu nói đặng giải cái nghi của vợ cậu không được hay sao?

- Ðược, mà thôi, chuyện đó là chuyện về sau khoan nói đã. Bây giờ để lo chuyện hiện tại trước. Chị biểu tôi nói vợ, mà tôi không có quần áo cho đúng, không có thiền bạc chi hết, mới làm sao đây? Cái vấn đề đó là một vấn đề vô phương giải quyết.

- Dữ hôn! Thứ chuyện đó mà lo giống gì, tôi bao cho, cậu đừng lo.

- Chị thương tôi đến thế hay sao?

- Tôi với cậu chị em đồng hương. Hồi tôi còn nhỏ, ông bà thương tôi lắm. Lúc tôi dạy học tại trường tỉnh, ông bà gởi cậu trong nhà tôi mà cậu đi học mấy năm, tôi coi cậu cũng như em ruột của tôi vậy. Nay ông bà khuất rồi, tôi thấy thân cậu vất vả tôi đau lòng lắm, tôi chịu không được, nên tôi mới lập thế giúp cậu có chỗ đặng mà nương nhờ, cho sung sướng tấm thân. Dầu tôi phải tốn hao năm bảy trăm mà cậu lập thân được, thì tôi không nệ gì, cậu đừng lo.

Tất Ðắc nghe lời nhơn nghĩa ấy thì cậu cảm xúc nên ngồi lặng thinh một hồi rồi mới nói rằng:

- Hổm nay tôi tưởng là việc vui miệng nói chơi, tôi không dè chị thương tôi đến nỗi cố tâm lập thân cho tôi. Nếu được vậy tôi cám ơn chị lung lắm.

- Ừ, thôi từ rày sắp lên đừng có nói giễu nữa đa.

- Thôi, tôi không dám giễu nữa đâu. Mà tôi tỏ thiệt với chị, trong việc nầy tôi ái ngại quá.

- Còn ngại cái gì nữa đó?

- Tôi sợ mình đi nói mà người ta không ưng thì mình hổ thẹn quá.

- Tôi đã nói với cậu, hễ tôi làm mai thì chắc được mà.

- Chắc thiệt hôn?

- Sai lại không chắc. Nếu tôi nói không được thì cậu đừng có thèm kêu tôi bằng chị nữa. Nè mà như tôi làm mai được, thì cậu mới tính làm sao mà đền ơn cho tôi?

- Tôi đã nói chị muốn thế nào cũng được mà.

- Tôi muốn cậu thưởng tôi hai ngàn đồng, cậu chịu hôn?

- Một đồng tôi cũng không có, làm sao cho có tới hai ngàn đồng mà thưởng cho chị.

- Chừng cưới xong rồi cậu sẽ thưởng chớ, mà tôi không buộc cậu thưởng một lần, cậu có trăm nào cậu thưởng trăm ấy, thưởng lần cho đủ số hai ngàn cũng được. Cậu chịu hôn?

- Chị muốn mấy ngàn cũng được hết, song phải cưới cho được kia chớ.

- Chớ sao. Tôi xin phân chứng với hai ông đây, nghe hôn. Hể cậu Tất Ðắc cưới được con Bạch Yến rồi thì cậu thưởng cho tôi hai ngàn đồng... Ý! Mà nói miệng không được. Cậu phải làm giấy cho tôi cầm tôi mới tin. Ông giáo cho tôi một tờ giấy ông giáo.

Cô Cẩm Hương vừa nói vừa bước lại bàn viết, chỗ Võ Lộ ngồi. Võ Lộ đưa cho cô một tờ giấy trắng, cô mượn luôn viết mực, rồi đem lại để trước mặt Tất Ðắc mà nói rằng:

- Cậu cầm viết viết đi.

- Phải viết thế nào bây giờ?

- Cậu đề ngày trước đi, rồi tôi nói cho cậu viết.

- Ðề ngày rồi.

Viết nè: “Tôi ký tên dưới đây là Châu Tất Ðắc, 26 tuổi, làm tờ nầy mà giao kết với cô Cẩm Hương, 35 tuổi, Ðốc học trường tư “Nữ lưu học hiệu” tại chợ Cầu Kho, như vầy: Nếu tôi cưới được cô Bạch Yến mà làm vợ thì tôi sẽ thưởng công làm mai cho cô Cẩm Hương một số bạc là hai ngàn đồng. Số bạc nầy tôi đưa lần lần, sau khi cưới vợ, đưa chừng nào đủ số hai ngàn thì thôi, không có tiền lời.

Muốn cho có đủ bằng cớ, nên tôi làm tờ nầy cho cô Cẩm Hương cầm. Nếu tôi không giữ lời giao kết trên đây thì cô Cẩm Hương được đem tờ nầy đến tòa Hộ kiện tôi mà đòi cho đủ số bạc hai ngàn.

- Thôi cậu ký tên đi.

Tất Ðắc ký tên rồi đưa tờ giấy cho cô Cẩm Hương. Cô vừa đọc lại vừa cười, rồi cô xếp bỏ vô bóp. Tự Cao bước lại gần nói rằng:

- Tôi tưởng nên viết thêm một câu nữa mới phải.

Cẩm Hương hỏi:

- Viết thêm câu gì?

- Thêm câu như vầy: “Nếu tôi không cưới được cô Bạch Yến bất luận cớ nào, thì tờ nầy kể bỏ”.

- Muốn thêm như vậy thì thêm đi.

Cẩm Hương trao tờ giấy lại cho Tất Ðắc viết thêm câu ấy rồi mới cất. Cô hỏi Tất Ðắc:

- Bây giờ áo quần cậu có những gì đâu, cậu nói cho tôi nghe thử coi.

- Tôi có vài bộ đồ tây trắng, mà nó đã xười[13] cửa tay, xười bâu rồi.

- Cậu không có đồ nỉ hay sao?

- Không có.

- Vậy phải đặt may một bộ đồ nỉ cho đúng mốt đặng bữa đi coi mà bận cho đúng lễ. Rồi phải may một bộ “tút xo”[14] với ít bộ đồ trắng nữa đặng sau đó làm rể mà bận, chớ bận một bộ đồ hoài, coi sao cho được.

- May nhiều tốn tiền lắm.

- Không hại gì. Cậu có sơ mi, giầy nón, vớ, bâu, nơ[15], cà vạt hay không?

- Có, mà đồ bậy bạ, coi xấu quá.

- Thôi, để tôi mua đồ mới hết thảy đi, chớ đồ cũ bậy bạ coi không tốt.

- Tùy ý chị. Nè, mà tôi nói trước, tôi không có tiền đa.

- Tôi bao, sẵn bữa nay chúa nhựt tôi rảnh, thôi cậu đi với tôi ra Bến Thành đặng đặt may áo quần và mua đồ luôn thể. Sắm đồ cho sẵn, đặng hễ tôi nói mà người ta chịu, người ta mời tới nhà, thì cậu có áo quần mà mặc cho tử tế.

- Chị muốn đi thì đi.

Tất Ðắc vô buồng thay đồ tây rồi cô Cẩm Hương kêu hai cái xe kéo lại mà đi với nhau.

Tự Cao ngó Võ Lộ mà cười và nói rằng: "Anh Tất Ðắc cưới vợ như vậy thì hạp với cái chủ nghĩa “Bất cần lao” của ảnh quá, mà ảnh còn dục dặc chớ. Toa coi phải nhờ mỏa lấy cái chủ nghĩa của mỏa mà mỏa khuyến khích ảnh nên ảnh mới chịu đó hôn?"

Võ Lộ gặt đầu mà cười.

   




Chú thích

  1. (chemise), áo đàn ông
  2. (to) anh, mày
  3. (moi) tôi, tao, ta
  4. Dính líu
  5. Sở thú Sài Gòn
  6. (gendarme) cảnh sát
  7. (matelot) lính thủy
  8. Đẹp, lý thú
  9. Cam đoan, còn gọi là bảo kết
  10. Bắt cá bằng cái nôm, nghĩa bóng: cưới người đã có thai
  11. Lộ sự thật, lộ bí mật
  12. Tọc mạch, điều tra
  13. Mòn
  14. (tussor) lụa
  15. (noeux) con ruồi cột cổ