Tạ Bắc sứ Mã Hợp Mưu, Dương Đình Trấn

Tạ Bắc sứ Mã Hợp Mưu, Dương Đình Trấn - 謝北使馬合謀,楊廷鎮
của Trần Minh Tông
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

馬頭萬里涉溪山,
玉節搖搖瘴霧寒。
忽睹十行開鳳尾,
宛如咫尺對龍顏。
漢元初紀時方泰,
舜歷新頒德又寬。
更得二公誠款款,
卻添春色上眉間。

Mã đầu vạn lý thiệp khê san,
Ngọc tiết dao dao chướng vụ hàn.
Hốt đổ thập hàng khai phượng vĩ,
Uyển như chỉ xích đối long nhan.
Hán nguyên sơ kỷ trời phương thái,
Thuấn lịch tân ban đức hựu khoan.
Cánh đắc nhị công thành khoản khoản,
Khước thiêm xuân sắc thướng mi gian.

Ruổi ngựa vượt qua muôn dặm núi khe,
Cờ ngọc tiết rung rinh sương khói lạnh lùng.
Mở cờ chiếu đuôi phượng ra chợt thấy mười hàng chữ,
Hệt như được đứng trước mặt rồng chỉ cách gang tấc.
Triều Hán lúc mở đầu là thời yên vui,
Lịch vua Thuấn mới ban, đức độ khoan hậu.
Lại được hai ông có lòng thành,
Càng thêm vẻ xuân hiện trên nét mày.

Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

九鼎奠安若泰山,
時暘時雨瘴煙寒。
普天玉帛歸堯舜,
比屋絃歌學孔顏。
銅柱不須勞馬援,
蒲鞭難復羨劉寬。
聖恩浩蕩慈雲闊,
化作甘霖滿世間。

Cửu đỉnh điện an nhược Thái san,
Thời dương thời vũ chướng yên hàn.
Phổ thiên ngọc bạch quy Nghiêu Thuấn,
Tị ốc huyền ca học Khổng Nhan.
Đồng trụ bất tu lao Mã Viện,
Bồ tiên nan phục tiễn Lưu Khoan.
Thánh ân hạo đãng từ vân khoát,
Hóa tác cam lâm mãn thế gian.

Chín cái vạc đặt vững như núi Thái sơn,
Nắng mưa phải thời, lam chướng tan.
Cả thiên hạ mang ngọc lụa về chầu Nghiêu, Thuấn,
Khắp mọi nhà đàn hát, học theo Khổng Tử, Nhan Hồi.
Không cần Mã Viện phải mất công dựng cột đồng,
Khó mà còn khen ngợi Lưu Khoan có roi cói.
Ơn thánh thượng mênh mông, mây lành rộng rãi,
Hóa làm mưa ngọt đầy khắp thế gian.