- Anh cán bộ còn trẻ, bị tra tấn nhiều nên xanh lắm. Bọn mật thám dẫn anh ta ra Cửa Nam để chỉ cho chúng bắt một anh cán bộ khác đã hẹn anh ta gặp nhau ở đây, tức là Quốc Vinh. Bọn mật thám trà trộn vào với mọi người. Không ai nhận ra chúng. Hôm ấy cũng vào buổi sáng và cũng rét lắm. Quốc Vinh vừa đi tới. Chỉ một giây là có thể lộ. Vừa lúc ấy, xe điện ở Hàng Bông chạy xuống. Anh ta kêu: “Bọn mật thám muốn tao khai thì đây này”. Giữa lúc chúng nó khôngngờ, anh ta lao vào cái xe điện. Trông thương lắm. Bọn mật thám lủi rồi, dân chúng còn đứng ngẩn ngơ nhìn cái nơi mà một người cách mạng đã hi sinh để khỏi lộ đồng chí. Chưa bao giờ tôi xúc động như buổi sáng hôm ấy mà chính mình được chứng kiến. Biết bao nhiêu người đã hi sinh trên đất Hà Nội này mới có ngày nay.

Trần Văn mỉm cười, chua chát:

-Có điều là mình nhát sợ. Mình phục những người cộng sản thì có phục nhưng không dám nhìn. Những hi sinh của họ quá cái sức của mình. Chính trong cái khoảng thời gian ấy, Quốc Vinh đến tìm tôi…

Loan quay mặt lại nhìn anh, chờ đợi. Trần Văn nói:

- Nhưng tôi không dám đi hoạt động, vì sợ nguy hiểm. Cái tầm thường của mình là thấy con đường mà vẫn cứ quanh co!

Họ lặng lẽ bước trên con đường Tràng Thi lúc này không có xe chạy, chỉ lẻ tẻ có vài người đi vội vã. Lòng giận giặc, nỗi bực mình lẫn với ở Trần Văn cái bồi hồi của nhớ tiếc, gợi lên do những lá bàng tím đỏ đầy đường sột soạt dưới chân và mấy con chim đậu trên dây thép trong ánh bạc của khoảng cây trụi lá. Đây là một trong những con đường đẹp nhất của Hà Nội, mà những hàng cây hai bên cao hơn nhà gác làm cho Hà Nội đắm trong thiên nhiên, và khi lộc non chuyển sang xanh râm, hay khi hoa phượng nở, hay khi lá rụng thay cho tiếng ve sầu, người ta như trông thấy và nghe thấy sự tuần hoàn của vũ trụ. Trên con đường thi cử của ông cha khi xưa, một đêm hè, dưới vòm cây mát, Trần Văn và Trinh đã nói với nhau những lời tình tự ban đầu. Con đường lúc này trông đau thương quằn quại và như quấn lấy anh. Thư viện trung ương mà anh là người đến đọc sách thường xuyên, thì im lặng như ngôi đền, chỉ có lá bàng, lá đa rụng đều xuống những thảm cỏ, xuống mấy cái ghế đá lơ thơ ngoài vườn vắng. Trần Văn nói:

- Cái phần khó khăn nhất, những người cán bộ ấy đã làm. Chúng ta bây giờ không có lí do gì để từ chối cái phần của chúng ta. Không thể để mất tất cả những cái này một lần nữa…

Người đổ xô từ phố Tràng Tiền về Bờ Hồ. Một đám thanh niên đang đứng trước dãy hàng hoa bỏ trống, vất điếu thuốc lá hút dở, rảo bước đi về phía tháp Bảo Thiên. Mấy chú khách bán phá xa ôm hòm lạc, lom khom bò, mắt sợ hãi nhìn trước nhìn sau. Những người chạy về cắt không còn hột máu. Tiếng kêu, tiếng gọi ầm ầm, hoà lẫn với tiếng chân huỳnh huỵch, tiếng giày, tiếng dép, tiếng rung chuông xe đạp không ngớt, tiếng ếp ếp của những anh xích-lô thục mạng lao cái xe không. Và bao trùm là cái gì không thành tiếng, nhưng nó phóng đại gấp trăm, gấp nghìn mọi tiếng động, nó vang trong đầu óc những khi bừng bừng căng thẳng, như cái tang trống phẳng chỉ một tiếng đập nhỏ cũng rung lên rất mạnh.

Trần Văn định ra nhà Thông tin phố Tràng Tiền để xem tin tức. Anh vẫn theo dõi tình hình chiến sự ở Lạng Sơn, ở Hải Phòng, ở Đà Nẵng, nhất là tình hình chính phủ mới của Pháp. Có tin Moóc-li-e đòi chính phủ ta không được bảo dân chúng Hà Nội sửa soạn phòng thủ, và phải phá ngay những ụ dựng lên ở các phố. Và nghe đâu trong một buổi gặp gỡ chớp nhoáng với Moóc-li-e, ông Võ Nguyên Giáp đã không chấp nhận cái yêu sách của viên tướng ấy. Lí do rất chính đáng. Người dân Hà Nội phải tự bảo vệ trước những hành động khiêu khích của quân đội Pháp.

Khi Trần Văn và Loan tới đầu quán hàng hoa thì người càng đùn về, lúc nhúc như sau một trận đá bóng. Nhìn xuống phố Tràng Tiền, thoáng thấy đằng xa Nhà Hát Lớn, trên đỉnh nóc cao lá cờ đỏ vẫn bay. Nửa phố về phía nhà hát vắng tanh. Nửa phố về phía Bờ Hồ, người đông nghịt, tỏa ra hai bên phố Hàng Bài và đường Bờ Hồ. Bên kia đường, trong nhà Ta-véc Roay-an, mấy người bồi Việt Nam khom khom đứng bên các bàn lố nhố đầm và tây, phần lớn là nhà binh. Loan khó chịu sao còn có những thằng bồi phục dịch chúng nó trong lúc này. Chúng nó thản nhiên ngồi uống rượu, hút thuốc lá khói um. Nhìn những người chạy bên ngoài, một con đầm tóc khô như rơm, nhún vai. Một thằng Tây đập cái roi da vào ủng một cách an nhàn, bên chân nó là hai con chó săn vểnh tai nhọn hoắt. Người ta níu lấy những người ở Tràng Tiền chạy lại. Tiếng hỏi đáp dồn dập:

- Tụi mũ đỏ giở cái trò gì nữa đấy?
- Nó phá nhà Thông tin Tràng Tiền.
- Sao nó lại phá?
- Ai biết được. Đang phát thanh, dân đang nghe tin tức thì nó vào đến mấy chục đứa. Bộ đội ngăn lại, nó đánh luôn. Nhân viên chạy hết. Nó xé tất cả các báo, các bản đồ, đập nát các máy. Chậu cảnh nó quăng hết. Nó phá sạch phòng triển lãm. Nó lấy giấy má đem đi.
- Thế là nó gây sự rồi à?
- Lúc ra, thấy ảnh Cụ, một thằng lấy lưỡi lê đâm nát. Một thằng trèo lên lấy cá cờ đi. Một thằng treo một lá cờ tam tài lên tường, rồi viết ở dưới: kẻ nào hạ lá cờ này, kẻ ấy phải đền mạng.
- Liên kiểm đâu? Sao để nó hoành hành thế?

Mấy người đang nói chuyện trước dãy hàng hoa, thì một thanh niên ở đâu nhảy vào. Đang đà nhảy, nhưng khi chân vừa tới đất thì anh đã đứng nguyên, người thẳng và mềm mại, nhẹ nhàng như con chim liệng xuống đất. Anh không đụng phải ai, nhưng cũng nói một câu xin lỗi kiểu cách. Anh có vẻ chú ý đến vụ Tràng Tiền, nhưng hỏi thì cũng chỉ hỏi như mọi người thôi. Anh vừa nghe vừa huýt con chó lài, một giống chó Lào Kay cao lớn và sạch, lông hung hung, cổ và lưng đen mượt. Theo một cái lườm trịch thượng và che chở của anh, con chó đứng im, không quẩn chân mọi người nữa.

Trông thấy Trần Văn, người thanh niên nháy mắt cười. Anh ta có đôi mắt quá bé so với cái mặt quá dài, miệng đầy răng, đặc biệt có hai cái răng nanh lộ liễu. Anh bỏ những người mà anh vừa nói chuyện, vừa nhảy vừa huýt sáo, vừa gọi:

- Lu lu, Lu lu.

Con chó nhảy chồm theo. Người thanh niên bắt chặt tay Trần Văn, tưởng như vặn nghiến, khiến cho Trần Văn nhăn mặt lại. Anh ta kéo Trần Văn ra một chỗ, tay ra hiệu như người câm nói chuyện. Loan thấy Trần Văn, vẻ tò mò, quay mặt ra phía hồ, như để tìm ai. Dưới bờ hồ, một người bé nhỏ đứng nhìn lên, thấy Trần Văn nhận ra mình, khẽ gật đầu và biến vào đám đông.

Một xe gíp phóng như bay từ phố Tràng Tiền lại. Nó đi sát cái bục của anh công an ở giữa ngã ba. Viên trật tự nhảy choàng xuống bục lánh sang một bên. Tên lái cứ phóng xe, không thèm ngoảnh mặt lại. Mắt mọi người bỗng trố ra, kinh hãi. Đằng sau thằng lái xe, một thằng mũ đỏ, vai lủng lẳng những dây thừng vàng, giữ riệt lấy một người còn trẻ, mặc toàn ka-ki, mặt mũi sưng vù. Người ta còn thoáng thấy cả ảnh Cụ Hồ và một lá cờ vò nát. Tiếng chân chạy ầm ầm. Một tiếng kêu thất thanh:

- Nó bắt anh thông tin rồi!

Người thanh niên bỏ Trần Văn, nhảy lên hè phố Hàng Khay, nói:

- Casse lui la gueule![1]

Cái xe vừa đi qua. Nhanh như cắt, anh thanh niên thò tay vào túi áo ra-gờ-lăng, rút ra một khẩu súng lục nhỏ, chĩa vào cái xe định bắn. Một anh bộ đội giữ anh thanh niên lại và nói:

- Không nên mắc mưu khiêu khích của nó.

Người thanh niên mặt dài, trật cái mũ nhung đen, vò đầu:

- Nó chửi vào mặt mình mà cứ bảo tránh khiêu khích mãi.

Nhưng anh ta đã bị dìu lẫn vào trong đám đông đang tản dần ra. Hình như bọn Tây mũ đỏ bên kia đường Hàng Khay không nhận thấy cử chỉ của người thanh niên. Nhưng chúng cũng nhìn theo, vẻ ngờ ngợ. Một thằng nhún vai một cách rất lính tẩy. Nó đưa bàn tay chém vào cổ nó, ra vẻ dọa những người bên Bờ Hô, uốn lưỡi, gầm gừ dằn từng tiếng:

- Việt Minh, vermine![2]

Rồi chúng tiếp tục đặt những dây điện thoại óng ánh vàng theo con đường Tràng Thi, Hàng Khay, Tràng Tiền.

Tự nhiên Loan thấy yêu cái anh chàng mặt dài kia mà Trần Văn cho biết tên là Nhật Tân. Nếu anh bắn vào trúng đầu thằng Tây ngồi xe gíp lúc nãy, thì Loan hả hê biết mấy.

Trần Văn kéo Loan đi. Bàn tay trong bàn tay lạnh giá của Trần Văn, Loan cảm động thấy mình được anh giữ gìn, che chở. Nhưng Loan khe khẽ rút tay ra, vừa vì ngượng, vừa vì thấy mình không đến nỗi bé bỏng quá để phải có người lớn dắt, nhất là trong lúc mọi người đang phải cứng cáp lên. Trần Văn lại cầm lấy tay Loan, nói nhỏ, nhưng giọng bực tức đến nghẹn ngào:

- Pháp nó đòi tước vũ khí của tự vệ. Ở Hải Phòng, nó đánh ta, cũng mở đầu bằng việc đòi giải tán tự vệ.

Loan hỏi:

- Mình có chịu không, thưa anh?
- Hội đồng Chính phủ đang bàn. Nhưng chịu thế nào được. Chính phủ đã hạ lệnh cho thanh niên sẵn sàng, tức là đã có thái độ cương quyết. Đối với chúng nó, không thể nói lẽ phải mãi được, mà phải cứng.
- Lúc nãy cứ để cho cái anh gì bắn chết mấy thằng có hơn không? Có khi nó sợ không dám làm già nữa. Cứ thế này mãi thì hoang mang lắm.

Vừa nói, Loan vừa chỉ vào Nhật Tân đi trước cách họ chừng năm sáu bước. Bên cạnh là cái anh nhỏ bé chỉ cao đến vai Nhật Tân. Nhật Tân hoa chân múa tay, con Lu lu chạy lên rồi lại quay xuống. Họ đi về phía Hàng Trống. Trần Văn giữ Loan lại, thở dài:

-Nóng gáy không được. Nó chỉ tìm cớ để đổ vạ cho mình. Mình thì khổ một cái là cứ phải giữ gìn. Nhục quá Câu Tiễn. Một người của nó bị giết, nó sẽ nói: Đấy tự vệ của anh thế đấy. Chúng tôi phải đảm bảo an ninh cho quân đội và kiều dân chúng tôi. Rồi nó sinh sự. Tám mươi năm nó cướp bóc nước mình, còn lạ gì cái dã tâm của nó.
- Cái ông cán bộ đi với Nhật Tân lúc nãy chào anh là ai đấy?
- À chính ông Quốc Vinh đấy.
- Ông Nguyễn Quốc Vinh đấy ư, anh? Bé nhỏ thế thôi à? Phó chủ tịch ủy ban bảo vệ mà trẻ thế ư, thưa anh?

Loan trông theo Nguyễn Quốc Vinh đi trước năm sáu bước, mà anh thoáng thấy gầy và xanh. Loan ngạc nhiên trước một sự thật hoàn toàn khác với quan niệm của anh. Qua những câu chuyện do Trần Văn kể lại trong khi đi đường, anh cho là cái nhân vật quan trọng ấy phải to lớn, vạm vỡ, đanh thép, theo đúng nghĩa một chiến sĩ cách mạng. Nhưng Loan lại nhớ đến những thiếu niên tướng quân nho nhã trong các tiểu thuyết Tàu có dưới trướng hàng trăm vạn binh và những tì tướng võ nghệ cao cường. Nghe tiếng kêu của Loan, Quốc Vinh quay lại. Lần này thì Loan thấy anh ta tiều tuỵ quá, mắt lại có vẻ lấm lét. Trần Văn nói như để giải thích về cái trẻ của Quốc Vinh:

- Người ta nói Chính phủ ta trẻ. Các bộ trưởng còn trẻ, huống chi là những cán bộ như ông này. Thế là tốt chứ, nghĩa là dân tộc mình còn trẻ…

Anh chưa nói hết câu, thì từ phía nhà Quốc hội tiến lại, hãi hùng như trong một cơn mộng dữ, một đám người to lớn, quần áo toàn một màu xám xịt. Chúng nói một thứ tiếng Tàu nặng trịch, cộc lốc, man rợ. Đứa thì đầu để trọc, đứa đội mũ bê-rê, có đứa đội cả cái thứ nón sơn vành rộng. Đứa thì đi giày Tây không đánh xi bao giờ, đứa thì đi giày Tàu vải đen, đứa thì đi hải sảo. Phần lớn đứa nào cũng đeo cái bao súng gỗ, nó càng làm tăng cái vẻ thô lỗ của chúng. Mặt đứa nào cũng to, với những nét nhăn của bọn hung đồ. Một đứa có một vết sâu hoắm làm lũng cả một bên má, vết sẹo tội lỗi của một tên tướng cướp. Chúng đi nghênh ngang, lộn xộn, hơi rượu bốc lên sặc sụa. Hình ảnh cục cằn, tục tĩu, ồn ào dâm ác của sòng bạc, của tàu ô, của hắc điếm, của những cuộc bắt cóc, chém giết vô tội vạ. Hình ảnh ghê tởm còn rớt lại của đạo quân Tàu trắng tiếp phòng những ngày đầu cách mạng còn in sâu trong kí ức của người Hà Nội đã trải qua nhiều cuộc hưng vong. Hình ảnh hãi hùng của những con quỷ đã gây nên bao nhiêu vụ tàn sát đẫm máu gần đây ở Hải Phòng. Mấy hôm nay, cái tin Pháp đưa rất nhiều thổ phỉ ở Phòng lên càng làm cho dân chúng xôn xao, lo sợ. Khi chúng đến gần Loan có một cảm giác lành lạnh, hôi hám tưởng như mình sắp gặp một điều gì chẳng lành.

Trần Văn nháy Loan rẽ ra phía bờ hồ. Lá rụng trên cái thảm cỏ sạch khô, mới hôm nào còn là những hầm trú ẩn đào trong những ngày chiến tranh vừa qua, gợi lên những tiếng còi báo động, rùng rợn, và ban đêm những cái bóng lạnh lẽo của những gái lữa làm tiền. Một buổi sáng mùa thu, chỉ cách đây'vài tháng, khoảng cái ngày Trần Văn đến dạy ở trường mới, tất cả Hà Nội đã ra đây lấp các hầm hố. Trong buổi sáng ấy, Trần Văn tưởng như bóng ma chiến tranh sẽ không bao giờ còn trở lại nữa. Không ngờ, nó đang rầm rập đến sau lưng. Nhưng lần này thì không phải là một cuộc chiến tranh mà đối với nó, anh có thể là một người ngoài cuộc, mong bên này được, muốn bên kia thua như trong cuộc xung đột lớn trên thế giới vừa qua. Đây là một cuộc chiến đấu sống chết với cả khối Pháp, thổ phỉ, lê dương liên kết lại, trong đó anh phải là người dự cuộc và mặc dầu bỡ ngỡ, anh không thể trốn tránh. Từ lúc nãy đến giờ, sự xấu hổ tủi nhục cứ xoáy mãi vào lòng anh, làm cho anh tức thở và chốc chốc lại đau nhói. Anh muốn thoát ra, mà có cái gì cứ chập lấy anh. Anh muốn vươn lên, nó cứ đè anh xuống. Anh muốn bước nhanh, mà chân cứ nặng nề. Anh muốn thét lên một tiếng kêu to, nhưng miệng anh như ngậm sỏi, và khi anh nói ra, anh cảm thấy lời nói gượng gạo, nhạt nhẽo, rời rạc, đứt hơi. Nỗi giận càng phải kìm đi anh càng thấy mệt mỏi và bất lực. Trong trí anh, lộn xộn những hình ảnh của bọn mũ đỏ thâm thù, của bọn Tây đầm ngạo nghễ, của mấy thằng bồi hèn hạ, của lá cờ bị vò nát, của anh thông tin vô tội mà lúc này có lẽ chúng đang tra tấn trong khi đó có thể vợ anh ta đang rưng rức khóc thầm. Hai hàm răng rít lại, anh run run nghĩ đến cái phút sảng khoái được cầm một con dao sắc thọc sâu vào cổ một thằng giặc không cứ là đứa nào. Nhưng anh nhắm mắt lại, cảm thấy bàn tay mình yếu ớt, không quen. Trong uất ức, anh bỗng thấy chói lên những vinh quang của người anh hùng áo vải mà sự nghiệp cứu nước dính chặt với Hồ Gươm. Nhưng chúng chỉ lóe lên như ánh chớp. Anh vẫn đứng trước cái thực tế đau khổ là mấy thằng mũ đỏ đang chửi vào mặt anh, ngay bên cái hồ oanh liệt.

Lá rụng trên vai anh. Gió lạnh của Hồ Gươm phả vào mặt anh, làm cho anh dịu dịu. Nước hồ phẳng như gương, lá cây và váng nước xanh vẩn. Hàng liễu trên bờ phía Cầu Gỗ buông rủ những mành thấp thoáng như sương. Những con đường nhỏ lượn dưới bóng những cây cổ thụ quạnh hiu, cuốn bay vài tà áo màu còn sót lại. Cầu Thê Húc, khom khom, đã ngả màu hồng nhạt. Trấn Ba Đình ủ rũ thấp xuống như bị dình. Tất cả đều im lìm, chờ đợi. Những con rùa lịch sử, chiến thắng và hoà bình, không thấy bóng tăm trên mặt nước. Cả đến đàn cò, từ năm này qua năm khác, không bao giờ rời cây gạo thân cao thẳng vút và trắng toát cũng không xào xạc như mọi khi. Chúng đi đâu hay đã nằm im trong tổ. Cái hồ yêu dấu như cũng cảm thấy dân tộc đang gặp khó khăn, và lắng xuống lo âu. Trần Văn chỉ cái tháp Rùa mốc rêu đứng giữa hồ, nói với Loan, như để tự an ủi:

- Loan có trông thấy không, lá cờ trên đỉnh tháp Rùa. Nếu không còn nó thì chẳng còn gì!

Bỗng có mấy tiếng súng nổ ở đâu gần lắm. Loan ríu lưỡi không nói được. Tiếng súng mỗi lúc một ran ran, oàng oàng, cục cục. Hai người chưa nhận ra được tiếng súng nào vào tiếng súng nào, chỉ có cảm tưởng hoang mang là đã có bắn nhau. Tiếng nổ mỗi lúc một dữ dội. Đã chiến tranh rồi ư? Trần Văn và Loan cắm đầu chạy. Chung quanh hồ, những bóng người lao đi trông trước trông sau. Chẳng thấy bóng bọn mũ đỏ, thổ phỉ đâu nữa. Một chiếc máy bay rè rè lượn trên đầu mọi người.

   




Chú thích

  1. Đập vỡ miệng nó ra!
  2. Việt Minh, loài giòi bọ!