Phật lục/II-2
A-DI-ĐÀ PHẬT
阿 彌 陀 佛
Theo lý-thuyết của đạo Phật, thì thế-gian ta ở đây là Sa-bà thế-giới 娑 婆 世 界 (Sahaloka), tức là một thế-giới ô-trọc[1] có nhiều sự khổ-não. Ở ngoài thế-giới ô-trọc này có một thế-giới rất thanh-tĩnh[2] gọi là Cực-lạc thế-giới 極 樂 世 界 (Sukhâvati). Người ở thế-giới này lúc nào cũng được yên vui, không có chút gì là phiền-não. Vậy Sa-bà thế-giới là uế-thổ[3] mà Cực-lạc thế-giới là tĩnh-thổ[4].
Ở kinh Phật-thuyết A-di-đà 佛 說 阿 彌 陀 經 đức Thích-ca mầu-ni Phật thuyết-pháp về cõi Cực-lạc và đức A-di-đà, đại khái nói rằng: « Từ cõi trần này sang phương tây qua bao nhiêu cõi đất khác, đến một cõi thế-giới gọi là Cực-lạc thế-giới. Ở đấy có đức Phật A-di-đà hiện đang thuyết-pháp để giáo-hóa chúng sinh, mà chúng sinh ở trong cõi Tượng đức A-di-đà Phật
A-di-đà Phật là dịch theo tiếng phạm Amitiyus Bouddha tức là Vô-lượng-thọ Phật 無 量 壽 佛 hay là Amitabha Bouddha tức là Vô-lượng-quang Phật 無 量 光 佛.
Kinh Bi-hoa 悲 花 nói về nhân quả của đức Phật A-di-đà, chép rằng: « Từ A-tăng-kỳ kiếp thuở xưa, tức là vô-số kiếp về trước, có một thế-giới gọi là cõi San-đề-lam 刪 提 嵐, ở đấy có một ông vua hiệu là Vô-tránh-niệm 無 諍 念 sinh được một nghìn người con. Thuở ấy có đức Phật ra đời hiệu là Bảo-tạng Như-lai 寳 藏 如 來. Vua cùng các hoàng-tử đều qui-y Phật và hết lòng tín-ngưỡng đạo-pháp. Một hôm đức Bảo-tạng Như-lai nhập chính-định, phóng hào-quang rất lớn, chiếu rõ mười phương thế-giới cho vua xem. Trong mười phương thế-giới ấy có chỗ thấy đầy cả năm thứ ô-trọc, có chỗ thấy rất là trong sạch nhiệm-mầu. Vua thấy thế, mới bạch đức Bảo-tạng Như-lai rằng: « Vì duyên-nghiệp gì mà các bậc Bồ-tát, có bậc thì chứng được chỗ thế-giới thanh-tĩnh, có bậc thì lại chứng phải chỗ thế-giới bất tĩnh như thế kia? » — Bảo-tạng Như-lai nói rằng: « Đó là do nguyện lực của các Bồ-tát, người thì nguyện ở cõi thanh-tĩnh, lìa bỏ hết mọi sự xấu-xa của ngũ trọc, người thì nguyện ở lại trong đời ngũ trọc. Ai nguyện thế nào thì được như thế ». — Vua bèn phát nguyện bốn-mươi-tám điều, để Phật thụ ký[5] cho. Phật bảo cho vua biết rằng: Sau vua sẽ thành Phật hiệu là Vô-lượng-thọ Như-lai ở Cực-lạc thế-giới.
Người con thứ nhất của vua Vô-tránh-niệm là Bất-tuẫn 不 眴 và người con thứ hai là Ni-ma 尼 摩 cũng phát nguyện sinh sang cõi Cực-lạc. Phật bảo Bất-tuẫn sẽ là Quan-thế-âm Bồ-tát và Ni-ma sẽ là Đại-thế-chí Bồ-tát. Hai người sẽ chầu chực đức Phật A-di-đà ở cõi Cực-lạc để tiếp dẫn chúng sinh về chỗ yên vui ».
Kinh Đại Di-đà 大 彌 陀 nói rằng: Đức A-di-đà lúc tối sơ hiệu là Pháp-tạng tỉ-khâu 法 藏 比 丘. Thuở ấy Tỉ-khâu đến trước Thế-tự-tại-vương Phật 世 自 在 王 佛 (Lokisvara Bouddha) mà bạch rằng: « Tôi phát cái lòng vô-thượng bồ-đề, nguyện khi được thành Phật thì có cái tướng quang minh, ở cõi đất tốt đẹp khác thường, như thế có được không ? ». Phật biết cái trí-thức của Tỉ-khâu cao-minh, tâm nguyện quảng-đại, bèn đem hai nghìn một trăm cõi Phật có đủ các tướng hay dở đẹp xấu cho tùy tâm nguyện của Tỉ-khâu mà hiện lộ ra. Tỉ khâu thu cái tâm của mình lại làm một, được ngay phép thiên-nhỡn[6], không có chỗ nào là trông không rõ, rồi bạch Phật rằng: « Tôi đã thu lấy được hết cả các cõi đất của Phật đã cho xem. Còn cái hạnh thanh-tĩnh để làm cho quốc-thổ trang nghiêm, thì xin bày tỏ ra để Phật nghe mà xét cho ». Nói đoạn Pháp-tạng tỉ-khâu phát ra 48 lời đại nguyện như sau này:
1.— Nguyện trong cõi tôi không có địa-ngục, ngã-quỉ, súc-sinh và các giống ruồi muỗi sâu bọ. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
2.— Nguyện trong cõi tôi không có hình tướng con trai con gái, và các loài chúng sinh ở cõi trời, cõi người sinh sang nước tôi đều do hoa-sen ở hồ thất-bảo mà hóa sinh ra. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
3.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi, ai muốn ăn, thì ở trong cái bát thất-bảo hiện ra các thức ăn; ăn xong bao nhiêu đồ khí-dụng tự-nhiên hóa đi. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
4.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi, ai muốn mặc áo quần gì, thì cứ tưởng đến là có, không phải may áo nhuộm giặt gì cả. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
5.— Nguyện ở trong cõi đất tôi, từ mặt đất lên đến trên không, chỗ nào cũng có cung-điện lâu đài, hồ ao, cây cối, hoa quả, mùi thơm ngào ngạt khắp mọi nơi, ai ai cũng tu Phật hạnh. Không được như lời ấy, không làm Phật.
6.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi đều có lòng yêu kính nhau, không ghen ghét nhau. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
8.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi hết thảy không có lòng dâm-dật sân-nộ[7], ngu-si. Không được như lời nguyện ấy không làm Phật.
8.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi ai cũng có thiện tâm, không làm mê-hoặc cái tưởng-niệm của kẻ khác, ai muốn nói điều gì là người ta hiểu ý ngay. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
9.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi đều không nghe thấy cái tiếng gì là bất thiện. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
10.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi biết thân mình là ảo-vọng, không có lòng tham-trược[8]. Không được như lời ấy, không làm Phật.
11.— Nguyện ở trong cõi đất tôi người ở cõi trời và cõi người tuy có khác nhau, nhưng hình-dung đều là một màu kim sắc, mắt mặt đoan-chính tươi-đẹp, không có gì là xấu-xa. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
12.— Nguyện người ở cõi trời và cõi người cùng các loài ruồi muỗi sâu bọ ở thập phương trong vô-số thế giới đều được hóa làm người, đều làm duyên-giác, thanh-văn, đều chuyên-nhất cái tâm mà tọa thiền, và đều được sống lâu thiên ức vạn kiếp. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
13.— Nguyện người ở cõi trời và cõi người cùng các loài ruồi muỗi sâu bọ trong nghìn ức thế-giới ở mười phương đều được làm người, làm duyên-giác, thanh văn, đều chuyên-nhất cái tâm mà tọa-thiền, và số người ấy có đến mấy nghìn vạn. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
14.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi, ai cũng có thọ-mệnh đến vô-số kiếp. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
15.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi, được vui sướng như bậc tỉ-khâu đã tu đến chỗ không sinh tử nữa. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
16.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi, ở ngôi chính tín, lìa bỏ các cái tư-tưởng điên-đảo, chư-căn[9] đều tĩnh-tịch, hết thảy ai cũng đến nát-bàn. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
17.— Nguyện tôi thuyết kinh, hành đạo, hơn gấp mười chư Phật. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
18.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi đều biết rõ cái túc-mệnh[10] của mình và biết rõ những việc ở trăm nghìn vạn ức kiếp khác. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
19.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi đều được phép « thiên-nhãn », trông thấy rõ trăm nghìn vạn ức thế-giới. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
20.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi đều được phép « thiên-nhĩ », nghe thấy trăm nghìn vạn ức chư Phật thuyết-pháp và đều thụ-trì[11] được hết cả. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
21.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi đều được phép « tha-tâm-trí[12] » hiểu biết tâm-niệm của chúng sinh ở trăm nghìn vạn ức thế-giới. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
22.— Nguyện người ở trong cõi đất tôi đều được phép « thần-túc »[13] chỉ trong khoản một niệm, có thể vượt qua trăm nghìn vạn ức thế-giới. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
23.— Nguyện cái danh-hiệu của tôi, ở thập phương thế-giới đâu đâu cũng biết; hết thảy đại chúng khen ngợi cái phần hơn phần đẹp của công-đức tôi và của quốc-thổ tôi; người ở cõi trời và cõi người cùng các loài ruồi muỗi sâu bọ, khi đã nghe cái danh-hiệu của tôi, hễ ai có lòng từ-thiện vui-mừng, thì cho sang sinh ở nước tôi. Không được như lời ấy, không làm Phật.
24.— Nguyện cái quang-minh ở trán tôi chiếu sáng hơn gấp trăm nghìn vạn ức cái sáng của mặt trăng. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
25.— Nguyện cái quang-minh của tôi chiếu sáng khắp cả các chỗ tối-tăm trong vô-số thiên-hạ, người ở cõi trời và cõi người cùng các loài ruồi muỗi sâu bọ, thấy cái quang-minh của tôi, đều có từ-tâm làm điều thiện và được sinh ra ở nước tôi. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
26.— Nguyện những người ở cõi trời và cõi người cùng các loài ruồi muỗi sâu bọ ở trong thập phương vô-số thế-giới, nhờ được cái quang-minh của tôi xúc-động đến thân, thành ra tâm thân từ-hòa hơn mọi người khác. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
27.— Nguyện những người ở cõi trời và cõi người ở trong thập phương vô-số thế-giới đều phát bồ-đề tâm, phụng trì trai-giới, tu sáu phép ba-la-mật[14], làm mọi điều công-đức, hết lòng phát nguyện, muốn sinh ra ở nước tôi; khi ai sắp chết, tôi cùng chúng thánh hiện ra trước người ấy, đem về sinh ra ở nước tôi; làm một vị bồ-tát bất-thoái-chuyển[15]. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
28.— Nguyện những người ở cõi trời và cõi người trong thập phương vô-số thế-giới, hễ nghe danh-hiệu của tôi, thì đốt hương tung hoa, thắp đèn, treo tranh, cho các sa-môn ăn uống, xây tháp lập chùa, trai-giới thanh-tĩnh, làm mọi điều từ-thiện, nhất tâm niệm đến tôi; làm được như thế, thì chỉ trong một ngày một đêm là được sinh ra ở nước tôi. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
29.— Nguyện những người ở cõi trời và cõi người trong thập phương vô-số thế-giới rất lòng tin vui, muốn sinh sang nước tôi, chỉ niệm đến tôi mười tiếng là được, trừ những người phạm vào tội ngũ-nghịch[16] và phỉ-báng, thì không được. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
30.— Nguyện những người ở cõi trời và cõi người cùng các loài ruồi muỗi sâu bọ trong thập phương vô-số thế-giới, lúc trước làm mọi điều ác nhưng nghe danh-hiệu tôi, thì sám-hối làm điều thiện, phụng-trì kinh-giới, nguyện được sinh ra ở nước tôi, rồi đến khi chết không phải vào ác-đạo[17] và hết thảy mọi điều sở-dục đều được như ý. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
31.— Nguyện những người ở cõi trời và cõi người trong thập phương vô-số thế-giới, nghe danh-hiệu tôi, thì cúi đầu làm lễ mừng-rỡ tin vui, tu bồ-tát hạnh. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
32.— Nguyện những người đàn-bà trong thập phương vô-số thế-giới, nghe danh-hiệu tôi, thì mừng-rỡ vui-vẻ, phát bồ-đề tâm. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
33.— Nguyện phàm những người sinh ra ở nước tôi là vào ở chỗ Phật, chỉ trừ ai muốn đi đến phương khác để giáo-hóa chúng sinh, tu bồ-tát hạnh, và cúng-dàng chư Phật, thì được sinh ra ở phương ấy; tôi sẽ lấy cái sức thần-uy để giáo-hóa hết thảy chúng sinh, ai nấy đều phát lòng tin, tu hết mọi điều lành. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
34.— Nguyện người nào đã sinh ra ở cõi đất tôi, mà muốn sinh ra phương khác, thì được như cái sở-nguyện của mình, không phải sa vào ác-đạo nữa. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
35.— Nguyện các vị bồ-tát ở cõi đất tôi, có đủ hương-hoa và các thứ châu-báu, khi nào muốn đi đến các thế-giới để cúng-dàng chư Phật, thì chỉ trong khoảng một lát là đi đến khắp cả mọi nơi. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
36.— Nguyện các vị bồ-tát ở cõi đất tôi, muốn đi lấy những vật trong muôn giống để cúng-dàng thập phương chư Phật, thì có ngay lập-tức để cúng-dàng khắp hết thảy, xong rồi trong ngày ấy lại trở về cõi tôi. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
37.— Nguyện các vị bồ-tát ở cõi đất tôi thụ-trì kinh pháp, ngâm đọc và tuyên-thuyết[18], thì có đủ tài biện-luận và trí-tuệ. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
38.— Nguyện các vị bồ-tát ở cõi đất tôi, có thể diễn-thuyết được hết thảy các phép, mà trí-tuệ và tài biện-luận thì không có hạn lượng. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
39.— Nguyện các vị bồ-tát ở cõi đất tôi đều có sức kim-cương na-la-diên, thân-thể như sắc hoàng-kim, có đủ các tướng đẹp và thuyết kinh thành đạo, không khác gì Phật. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
40.— Nguyện cõi đất thanh-tĩnh của tôi, chiếu rõ thập phương vô-lượng thế-giới, các vị bồ-tát muốn ở dưới cây bảo-thụ trông thấy hết thảy cõi đất nghiêm-tĩnh[19] của Phật trong thập phương, thì những cõi đất ấy tức-thì hiện ra như cái gương sáng, trông rõ mặt mũi hình tướng. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
41.— Nguyện các vị bồ-tát ở cõi đất tôi, tuy ai có ít công-đức nhưng cũng có thể trông thấy cái cây ở đạo-trường của tôi, cao bốn ngàn do-tuần[20]. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
42.— Nguyện ở trong cõi đất tôi, các hạng người ở cõi trời và cõi người cùng hết thảy vạn vật, đều nghiêm-tĩnh quang-lệ[21], hình sắc khác thường, cùng vi cực diệu[22], không ai xét lường được; chúng sinh dầu có phép thiên-nhỡn cũng không biết rõ danh số được. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
43.— Nguyện những người ở trong cõi đất tôi cứ tùy cái chí-nguyện của mình muốn nghe chính-pháp, thì tự-nhiên được nghe ngay. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
44.— Nguyện các vị bồ-tát và thanh-văn ở trong cõi đất tôi, đều có trí-tuệ uy-thần, ở trán có quang-minh, tiếng nói hồng-sướng[23], thuyết kinh hành đạo, không khác gì Phật. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
45.— Nguyện chư bồ-tát ở thế-giới phương khác nghe danh-hiệu của tôi, thì qui-y tinh-tiến và được phép tam-muội thanh-tĩnh[24] giải-thoát. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
46.— Nguyện chư bồ-tát ở thế-giới khác nghe danh-hiệu của tôi, thì qui-y tinh-tiến và được phép tam-muội phổ-đẳng[25], đến khi thành Phật thường trông thấy hết thảy chư Phật. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
47.— Nguyện chư bồ-tát ở các thế-giới khác, nghe danh-hiệu của tôi, thì qui-y tinh-tiến và tức-thì đến chỗ bất-thoái-chuyển-địa[26]. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
48.— Nguyện chư bồ-tát ở các thế-giới khác, nghe danh-hiệu của tôi, thì qui-y tinh-tiến và tức-thì được phép đệ-nhất nhẫn, đệ-nhị nhẫn, đệ-tam nhẫn[27] và đối với Phật pháp không hề bao giờ thoái-chuyển. Không được như lời nguyện ấy, không làm Phật.
⁂
Pháp-tạng Tỉ-khâu phát ra 48 lời nguyện ấy, gây thành cái duyên tốt cho mình, đức Tự-tại-vương Phật thụ ký hết cả bấy-nhiêu điều. Sau quả-nhiên Tỉ-khâu thành chính-quả ở cõi Cực-lạc, tức là đức A-di-đà Phật, có phép mầu đúng như lời nguyện.
Hiện nay ở cõi Tây-phương Cực-lạc, đức A-di-đà Phật cùng hai vị đại Bồ-tát là Quan-thế-âm và Đại-Thế-chí chủ việc tế-độ và tiếp-dẫn chúng sinh ở trong thập phương. Hễ bất kỳ ở đâu có người phát tâm làm điều từ-thiện và hết lòng cầu-nguyện được hóa sinh ở cõi Cực-lạc, thì Phật độ cho hết cả. Bởi vậy ở các chùa đâu đâu cũng có tượng thờ đức A-di-đà và hai vị Đại Bồ-tát: Quan-thế-âm và Đại Thế-chí, gọi là Di-đà tam tôn 彌 陀 三 尊.
- ▲ Ô-trọc: Dơ đục.
- ▲ Thanh-tĩnh: trong sạch.
- ▲ Uế-thổ: Đất bẩn.
- ▲ Tĩnh-thổ: Đất sạch.
- ▲ Thụ-ký: Trao ghi, nghĩa là ghi nhận cho vào đạo quả.
- ▲ Thiên-nhỡn: Mắt của bậc trời, trông rõ hết thảy mọi vật ở trong thế-gian.
- ▲ Sân nộ: Nóng giận.
- ▲ Tham-trược: tham-lam bám-víu.
- ▲ Chư căn: Nói gồm cả lục căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
- ▲ Túc-mệnh: Việc sống ở kiếp trước.
- ▲ Thụ-trì: Theo giữ.
- ▲ Tha-tâm-trí: Biết tâm-trí của kẻ khác.
- ▲ Thần-túc: Chân thần, phép đi đâu cũng được.
- ▲ Ba-la-mật: Phép tu lục-độ.
- ▲ Bất-thoái-chuyển: Không lui chuyển.
- ▲ Ngũ-nghịch: Năm tội nghịch là: giết cha, giết mẹ, giết a-la-hán, phá sự hòa-hợp của tăng-nhân, làm cho máu ở trong thân Phật chảy ra.
- ▲ Ác-đạo: Ngã-quỉ-đạo, súc-sinh-đạo và địa-ngục-đạo.
- ▲ Tuyên-thuyết: Nói rõ cho mọi người biết.
- ▲ Nghiêm-tĩnh: Nghiêm trang trong-sạch.
- ▲ Do-tuần: Số đo của người Ấn-độ.
- ▲ Nghiêm-tĩnh quang-lệ: Nghiêm-trang trong-sạch sáng-sủa đẹp-đẽ.
- ▲ Cùng vi cực diệu: Nhỏ vô cùng và rất linh-diệu.
- ▲ Tiếng nói hồng-sướng: Tiếng nói rõ-ràng.
- ▲ Tam-muội thanh-tĩnh: Phép tam-muội trong sạch.
- ▲ Tam-muội phổ-đẳng: Phép tam-muội biết khắp hết thảy.
- ▲ Bất-thoái chuyển-địa: Chỗ không lùi lại.
- ▲ Ba Phép nhẫn của bậc đắc đạo.