Nhị độ mai/I
1Hóa-nhi thăm-thẳm nghìn trùng,
Nhắc cân phúc tội, rút vòng vần xây.
Ngàn xưa mấy kẻ gian ngay,
Xem cơ báo-ứng biết tay trời già.
Tuần-hoàn lẽ ấy chẳng xa,
Chớ đem nông-nỗi mà ngờ cao xanh.
Trời nào phụ kẻ trung-trinh,
Dù vương nạn ấy, ắt dành phúc kia.
Danh thơm muôn kiếp còn ghi,
10Để gương trong sách, tạc bia dưới đời.
Gian-tà đắc chí mấy hơi,
Mắt thần khôn giấu lưới trời khôn dung.
Uy-quyền một chút như không,
Xem bằng lửa đá ví cùng đám mây.
Thanh-nhàn khi tựa hiên tây,
Vui lòng đèn sách, nghỉ tay văn bài.
Truyện ngoài xem "Nhị Độ Mai",
Nhà Đường truyền vị đến đời Đức-tông.
Thường-châu có kẻ thanh-trung,
20Bá Cao là chữ, vốn dòng họ Mai.
Nền trung-trực dạ trang-đài (?).
Trời cho văn-tử đáng tài trạng-nguyên.
Đặt tên Lương-Ngọc dõi truyền,
Thông-minh rất mực, phượng tiên (?) trong đời.
Nhân-duyên số sẵn tự trời,
Hôn-nhân đã định vào nơi họ Hầu.
Chỉ vì ngoại lỵ bấy lâu,
Chưa trao lễ nhạn mới đầu thiếp canh.
Mai công tri-huyện Lịch-thành,
30Gương trung sáng vặc, túi thanh nhẹ bồng.
Cầm-đường ngày tháng thung-dung,
Tên ngay là tiết, nước trong ấy lòng.
Bấy lâu Lư Kỷ tướng-công,
Tuy quyền-tước lớn, mà phong độ hèn.
Túi tham của đút chật lèn,
Dung bên gian-đảng, ghét bên hiền tài.
Mai-công mấy độ quan ngoài,
Bạn-bè nhờ có mấy người đồng niên.
Trong triều hết sức giữ-gìn,
40Kẻ ngôi Thiêm-sự, người quyền Thượng-thư.
Kìa Đảng Tiến, nọ Đông Sơ,
Kẻ tòa Đô-sát, người tòa Hàn-lâm.
Chu toàn đã ngoại mười năm,
Bè trung chống vững, lòng căm chớ hòng.
Một ngày huyện-vụ vừa xong,
Vào trong ông mới ngỏ cùng phu-nhân.
Rằng : "Ta vốn kẻ trung-thần,
Trên vì nước, dưới vì dân mới là!
Ví dù theo thói người ta,
50Uốn lưng co gối cũng nhơ một đời.
Lọ là cầu-cạnh chi ai,
Chẳng trong lăng miếu, cũng ngoài điền-viên.
Con ta trạc tuổi thanh niên,
Có gương khoa giáp, có nền đỉnh-chung.
Sao cho giữ được chữ trung,
Mới là hiếu-tử nối dòng thư-hương."
Những là vui chuyện nội đường,
Sảnh ngoài bỗng có hai chàng báo tin:
Mai-công phụng chỉ thăng thuyên.
60Chiếu trời mây vỗ, ân trên mưa nhuần.
Triều ban dự bậc quan thân,
Lại khoa cấp-sự giữ phần gián quan.
Tin đâu khêu tấm trung-can.
Một hai quyết phải trừ gian phen này.
Truyền làm tiệc rượu vui-vầy,
Dặn-dò gia-sự đinh ngày khởi thân.
Tàng tàng chén cúc vài tuần,
Đòi công-tử với phu-nhân dạy lời:
Rằng: " Bấy lâu những ở ngoài,
70Dạ này tấm-tức với người quyền gian.
Rày vâng Đài-gián thăng quan,
Phen này ta quyết cả gan phen này.
Bấy giờ một dở, một hay,
Họp nhau nào biết có ngày nữa thôi?
Cũng đừng bịn rịn lôi-thôi,
Mẹ con sớm liệu về nơi quê nhà.
Điền-viên vui thú nông gia,
Tiện con đèn sách ấy là lẽ nên!
Ví dù giải kết có tin,
80Bảo nhau sớm liệu tìm miền ẩn thân.
Chờ cho thiên-địa xoay vần,
Sẽ toan-tính với thù-nhân sau này.
May mà vua chứng lòng ngay,
Đàn hồ, lũ thỏ, một ngày quét thanh.
Bấy giờ phu quý, phụ vinh,
Đưa tin sẽ đón thăng kinh cũng vừa."
Tân bằng mừng rỡ chật nhà,
Tiếp thù ông bận những là hàn-ôn.
Phu-nhân nửa lệ nửa buồn,
90Đòi công-tử đến, mẹ con bàn-hoàn.
Rằng: "Nghe như bố con bàn,
Phen này quyết với quyền gian đối đầu.
Sẻ đàn, phượng một, chắc đâu,
Cái lo này để về sau tày trời."
Nghe rồi công-tử thưa lời:
"Thế rằng cái đạo làm tôi mới là.
Nhà huyên xin chớ lo xa,
Hễ trời có mắt thì ta lệ gì ?
Hãy cho vẹn tấm trung-nghì,
100Vinh, khô, đắc, táng, sá chi cuộc đời."
Ông vừa xong việc khách ngoài,
Bước vào trong bỗng nghe lời con thưa.
Vuốt râu cười nói lui ra,
Khen rằng: "Ấy thực đại-gia con nòi!
Trẻ thơ biết đạo làm tôi,
Gương trung-hiếu, lấy một lời mà suy.
Mới hay hổ phụ, lân nhi,
Khéo thay tính trẻ cũng y tính già."
Nói rồi truyền gọi lại nha,
110Đương đường nhủ hết nỗi xa nỗi gần:
"Làm người biết đạo tu thân,
Việc quan phải giữ lấy nhân làm đầu.
Tiếng thanh bạch để về sau,
Dẫu rằng uống nước, ăn rau chớ nài.
Việc văn án, phải quan-hoài,
Một câu nặng nhẹ mấy người oan-khiên.
Khuyên đừng đổi trắng thay đen,
Ngược dân dưới, dối quan trên, khó lòng.
Giữ-gìn đôi chữ hiếu-trung,
120Sao cho không hổ với trong cao dày.
Ta đây vả tiếng quan thầy,
Giã nhau một chút niềm tây gọi là.
Rồi đây một bước một xa,
Nghe ta hay chẳng nghe ta, mặc dầu!"
Dạy rồi ai nấy gật đầu,
Rằng: "Vâng khuyên nhủ từ sau ghi lòng."
Trù-phòng dọn dẹp vừa xong,
Một công-tử với hai ông bà ngồi.
Dặt-dìu sẽ rót chén mồi,
130Nghìn câu trân-trọng trăm lời biệt ly.
Người trằn-trọc nỗi về quê,
Kẻ năn nỉ nỗi đường đi giữ-gìn.
Người khuyên cẩn-thận sớ tiên,
Kẻ răn nhắc nhỏm sách-đèn sớm khuya.
Lôi thôi giở nỗi lâm-kỳ,
Ngoài đầy vơi chén, trong mê mẩn tình.
Phu-nhân hỏi: "Buổi đăng Kinh,
Phỏng cho mấy đứa tùy hành theo ông ?"
Mai-công rằng: "Lọ chi đông,
140Một chàng Mai Bạch vốn trong họ nhà.
Gọi là làm bạn đường xa,
Gọi là ngày gió ngày mưa theo hầu."
Còn đương trò-chuyện trước sau,
Xôn-xao nghe bỗng tiếng đâu gần gần.
Gót giày ông mới động chân,
Trông ra đã chật một sân những người.
Bẩm rằng: "Dân sự chúng tôi,
Tấm lòng xin ngỏ, chút lời xin thưa.
Từ ngày trọng lỵ đến giờ,
150Một đường sao phúc, muôn nhà phật sinh.
Bao nhiêu lại tệ dân tình,
Đuốc soi chẳng chút đỉnh-đinh dám lòa.
Tấc lòng xem bẵng mẹ cha,
Đọc ca mạch-tuệ ngâm thơ cam-đường.
Bấm tay mười mấy năm trường,
Mưa xuân tưới khắp một phương Lịch-thành.
Rày vâng thăng điệu lai Kinh,
Thỏa lòng hồ-thỉ phỉ tình đai cân.
Thênh-thênh nhẹ bước thanh vân,
160Cành cây dám tưởng bận chân loan hoàng.
Nghĩ cho chút phận tầm thường,
Đạo con cái được tựa-nương bấy chầy.
Chỉn e tiếp lỵ sau này,
Lòng thương cân được như rày mấy phân ?
Bấy giờ lễ cách quan dân,
Tưởng công-đức trước, lại năn nỉ nhiều.
Lòng thành nay quyết xin theo,
Làm đơn ái-mộ dâng liều một chương.
Họa là vua nặng lòng thương,
170Thấy tình Trường-xã, lưu chàng Khấu quân."
Ông rằng : "Vẫn biết lòng dân,
Lời trung-hậu ấy, tình thân-ái này.
Ta làm Huyện-tể bấy nay,
Có chi công-đức đáng rày truy-tư?
Phương chi thế-sự bây giờ,
Dễ dò bụng hiểm, khôn lừa mưu gian.
Họ Lư cưu dạ tham tàn,
Rình như miếng mộc, những toan hại người.
Phỏng mà nghe đặng như lời,
180Hẳn là mua chuộc lòng người hạ ta.
Miệng sàm dệt gấm thêu hoa,
Công nào chưa thấy tội đà đến ngay.
Lại càng mang tiếng chẳng hay,
Yêu đây để xấu cho đây ích gì?"
Dân nghe biết ý quyết đi,
Lui ra, còn dám nằn-nì nữa đâu?
Một đoàn kẻ trước, người sau,
Khen cho rằng khéo bảo nhau một bề.
Lễ đâu đưa đến tức thì,
190Vạn dân-tản, vạn dân-y sẵn sàng.
Thưa rằng: "Gọi chút lễ thường,
Mà lòng tạc dạ ghi xương còn dài"
Ông xem thấy ý vật nài,
Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn.
Phu-nhân công-tử xuống thoàn,
Mai-công ở lại đợi còn bàn giao.
Ngại-ngùng thay, lúc phân-bào !
Kẻ về tử-lý người vào ngọc-kinh.
Cho hay là kẻ trung-trinh,
200Nặng lòng vương-sự, nhẹ tình gia-mang.
Mặc ai châu lệ hai hàng,
Gác tình nhi nữ xem thường như không.
Vài ngày huyện-vụ giao xong,
Ra thành lên kiệu thẳng giong nhật trình.
Huyện dân chực sẵn tiễn-hành.
Hương-đăng bày án, tràng đình dọn nơi.
Đón đưa khắp mặt thiếu ai,
Mấy tòa quan tỉnh mấy người hương thân.
Người dường ra ý ân-cần.
210Ông thì thủng-thẳng có phần xem khinh.
Giã nhau mười dặm tràng-đình.
Trông theo đã khuất mây xanh mấy trùng.
Nước non đưa đón người trung,
Suối tuôn giòng chảy, núi chồng lớp cao.
Nhởn-nhơ cỏ đón hoa chào,
Hang men móc vượn, cây xào-xạc chim.
Tấc gang kinh-quốc chờ xem,
Đường ngày giục kiệu, điếm đêm đổ cờ.
Kìa chài sớm, nọ cày trưa,
220Gió gần giọng địch, mây xa tiếng tiều.
Quê người phong cảnh đìu hiu.
Trăng thanh gió mát dường chiều chuông ai !
Những màng giong-ruổi dặm dài,
Trông ra bỗng thấy bốn người xa xa.
Hỏi ra mới biết rằng là:
Trong kinh, Lại-bộ sai nha đón mình.
Hoàng hôn gác bóng chênh-chênh,
Truyền tìm quán khách bộ-hành nghỉ-ngơi.
Bốn người tức khắc vâng lời,
230Trước đi tìm chốn thảnh-thơi đón mời.
Tuy rằng quán khách hẹp-hòi,
Chốn nằm cũng tĩnh, chốn ngồi cũng thanh.
Thung-dung hỏi chuyện trong Kinh:
Lư, Hoàng lũ ấy tung-hoành ra sao ?
Thưa rằng: "Chức trọng quyền cao,
Triều-quan quá nửa ra vào làm tôi.
Ai ai khóa miệng bịt hơi,
Ngang vua phú-quí, nghiêng trời uy-linh.
Đại-gia rày ở quan Kinh,
240Theo đòi nhiều ít, thế tình là xong."
Mai-công nổi giận đùng đùng,
Rằng: "Phen này quyết chẳng dung loài hồ.
Vào đây ta sẽ hay cho,
Đừng Tung, đừng Kỷ, hết Lư, hết Hoàng !
Mặt nào bắt-chước thế thường,
Thiết-tha ban tối, khoe-khoang giữa ngày."
Gan càng tức, ruột càng đầy,
Truyền thôi cuộc rượu, vào ngay trong bình.
Sáng mai thức dậy trông quanh,
250Treo trên thấy có bực tranh Di, Tề.
Như khêu tấm dạ trung-nghì,
Dạy đem nghiên-bút thơ đề mấy câu.
Than rằng: "Thanh ứng khí cầu.
Người kim cổ, bụng trước sau một đường."
Lại truyền giục kiệu lên đường,
Trông kinh-quốc đã tấc gang đó rồi.
Một vùng riêng đặt phủ trời,
Hoàng-thành trăm trắm, kỳ-đài cao cao.
Cõi người nước nhược nguồn đào,
260Liền mây ngàn dãy, bày sao trăm tòa.
Chập-chồng vách gấm tường hoa,
Cửa lầu ngũ-phượng, thềm nhà lưỡng long.
Bách quan đóng chặt sân phong,
Tiếng chen xe ngựa, vẻ lồng cân đai.
Tìm vào Lại-bộ tới nơi,
Truyền nha-môn định, ngày mai tiến chầu.
Ngắm xiêm, sụa mũ giờ lâu,
Uốn lưng năm lạy, Khấn đầu ba phen.
Lạy rồi ren-rén tâu lên,
270Chúc câu vạn-tuế, dâng lên cửu-trùng.
Tiếng trời đưa lại bệ rồng:
"Đặt tòa gián-viện kén dùng kẻ trung.
"Sau cho sắt đá một lòng,
"Miệng hùm chớ sợ, vảy rồng chớ ghê."
Tâu rằng: "Hổ phận ngu-si,
"Đem lòng khuyển mã đền nghì bể sông."
Tan triều lệnh ngự vào trong,
Bách quan lui xuống đều cùng bước ra.
Mai-công toan trở lại nhà,
280Tiện gần tướng-phủ sang qua vào liền.
Nghiêm-trang cụa thế sân quyền,
Trước bia hạ mã chật lèn ngựa xe.
Ông bèn giả cách vô tri,
Ngồi trăm-trắm kiệu, vào kề nghi-môn.
Môn quan trông thấy thét dồn,
Xôn-xao bẻ-bót, ôn-tồn hỏi tra.
Ông rằng: "Đâu chẳng biết ta,
Huyện-quan về bộ Lại-khoa ngày rày.
Buổi chầu nhân tiện sang đây,
290Nhờ ai trong ấy bẩm thay cho tường."
Môn-quan rằng: "Lệ phủ-đường,
Có đồ yết lễ, có vàng mấy bao.
Có thì sẽ bẩm cho vào,
Bằng không hãy chực ngoài rào xa xa."
Ông rằng: "Lệ đặt bao giờ,
Ấy là quốc-pháp hay là phủ-qui ?
Ta đây vốn chẳng cần chi,
Vào thì cũng được, ra thì cũng nên !"
Không xuống kiệu vẫn ngồi trên,
300Tay cầm thủ-bản ném bên thềm ngoài.
Kíp truyền quân kiệu tháo lui,
Sang tòa Đô-sát, họp người đồng niên.
Phùng-công ra đón rước liền,
Chủ tân một hội, hàn-huyên mấy lời.
Sự tình kể-lể lôi thôi,
Ngoài ngàn muôn dặm, trong mười mấy năm.
Xiết bao trò-chuyện tri âm,
Khói hương cao thấp, chén trầm đầy vơi.
Mai-công rằng: “Lúc mới rồi,
310Tức gan mà lại nực cười lắm sao."
Kể từ tướng-phủ mới vào,
Thế nào khinh-dể, thế nào hỏi han,
Miệng đường lại, mặt môn-quan,
Kẻ xin đòi lễ, mình toan ném tờ.
Đinh-ninh kẽ tóc chân tơ,
Từ đầu đến cuối kể qua một hồi.
Chư công rằng: "Hãy kín hơi,
Nghĩ cho chín, mới là người tri cơ.
Rồi đây trời cũng có ta,
320Làm bao giờ, biết bấy giờ, mới cao."
Ông rằng: "Như thế thảo nào,
Bè gian trách chẳng quyền-hào lắm ru !
Như bây giờ việc nên lo,
Quấy hôi đặt miệng, bày trò Trào-châu.
Tôi đà tính trước nghĩ sau,
Muốn yên chi khỏi lấy đầu họ Lư ?
Thôi đừng sợ oán sợ thù,
Rày lần mai lữa, nhập-nhù khó coi.
Việc này giao một mình tôi,
330Để mà xem Kỷ với Mai thế nào !
Ví bằng giải kết làm sao,
Giữ-gìn Mai-thị trỏ vào lối sinh.
Già này dù thác cũng vinh,
Suối vàng khuất mặt cũng khinh-khích cười."
Thoắt thôi từ tạ mấy người,
Tấc lòng thề chẳng đội trời với ai.
Ngày xuân thấm-thoắt đưa thoi,
Lư-công tuổi thọ sáu-mươi vừa tuần.
Định ngày vui mở tiệc xuân,
340Vua cho lễ-vật nội thần đem ban.
Lại truyền văn võ bá quan,
Cứ ngày cùng đến tướng môn lễ mừng.
Phủ-đường dọn dẹp tưng-bừng,
Rỡ-ràng kết thái trương đăng trong ngoài.
Vóc đề chữ, gấm thêu bài,
Vịnh ca Thiên-bảo, chúc lời Nghiêu-hoa,
Dập-dìu chốn vũ nơi ca,
Trò bày bách hí, nhịp hòa bát âm.
Chong giá nến, quạt lò trầm,
350Rót bình rượu ngọc, dâng mâm đào vàng.
Võng đầy cửa ngựa chen đàng,
Khắp triều quan đến, khắp hoàng thân ra.
Bày phô chén ngọc đũa ngà,
Gia-hào mấy vị, trân-la mọi mùi.
Tướng-công thăm-thẳm xa ngồi,
Tiếp tân phó mặc con nuôi họ Hoàng.
Mai-công lễ vật tầm thường,
Miến vài cân với lạp-hoàng vài đôi.
Hoàng Tung trông thấy mỉm cười,
360Tìm Lư-công, đến tận nơi tiến trình.
Tướng công ngồi trước thọ bình,
Chói vàng bông mũ, ngắt xanh hoa bào.
Tứ bề trướng gấm màn đào,
Mùi hương-xạ ngát, tiếng thiều nhạc rung.
Trông ra nhác thấy Hoàng Tung,
Xem đơn lễ mới thung-dung dạy lời:
"Ít nhiều có lễ thì thôi,
Hãy thu lấy đấy, khuyên mời hẳn-hoi.
Tay này là bậc đại tài,
370Để ta mua chuộc làm tôi tớ nhà."
Cứ lời, Tung mới bước ra,
Chào rằng: "Vâng mệnh ân-gia mời ngồi.
Lễ đơn đây đã thu rồi,
Dám xin vài chén tiệc vui gọi là !"
Mai-công rằng: "Những ở xa,
Chẳng hay quí chức tuổi đà bao nhiêu ?"
Tung rằng: "Tuổi cũng chưa nhiều,
Năm mươi tư tuổi gần theo cõi già."
Ông rằng: "Thực cũng khéo là,
380Thế mà nghĩa-phụ, thế mà ân-nhi.
Sống lâu thấy lắm chuyện kỳ,
Sao xưa nay vẫn không nghe tiếng đồn ?
Mới hay vượng-khí tướng-môn ,
Năm lên sáu tuổi sinh con đầu lòng."
Tung nghe ra giọng đâm hông,
Mặt ngăn ngắt tím, mắt sòng-sọc trông.
Các quan biết ý Hoàng Tung,
Giả điều mời rượu Mai-công ép nài.
Ông rằng: "Lượng rượu kém ai,
390Tiệc vui, dù chẳng đợi mời cũng say.
Nghe hơi tử-khí đâu đây,
Dẫu rằng nửa chén đưa cay chẳng màng.
Đến đây vâng mệnh Thánh-hoàng,
Sá vui kèo rót với tuồng quyền-gian."
Hoàng Tung đỏ mặt sốt gan,
Bất thình-lình bỗng trong bàn mất vui.
Như mèo tiu-nguỷu mất tai,
Chẳng thu một lễ chẳng mời một ai.
Vào trong tức tối một hơi,
400Bên màn Lư Kỷ, kê ngồi nỉ-non.
Nhỏ to chua cái chua con:
"Hôm xưa kiệu đến nghi-môn còn ngồi.
Mới rồi đưa lễ giễu chơi,
Đã câu rủa mát, lại lời đưa chênh.
Gần chùa gọi bụt là anh,
Không văn-pháp nữa, còn danh-giá gì"
Lư rằng: "Con chớ lo chi,
Ra tay, rồi sẽ liệu bề bẻ mai.
Cho vào bạn đảng thì thôi,
410Bấy giờ dẫu nghĩ kêu trời cũng xa !"
Bè gian đang sắp mưu lừa,
Bỗng đâu nội-giám đã ra truyền đòi.
Liền tay thảo sớ một bài,
Theo chân nội-giám vào nơi đền vàng.
Vua Đường rằng: "Buổi thong-dong,
Hứng vui nên triệu tướng-công hầu cờ."
Bàn son bày sẵn quân ngà,
Lư-công có ý chịu thua hai bàn.
Đứng tâu trước mặt long-nhan,
420"Lòng lo việc nước, nào toan việc cờ.
Ai hay những việc chẳng ngờ,
Lời biên-quan báo, thực là không sai.
Ong trong tay áo có người,
Giao-thông giặc Thát toan bày nọ kia.
Tâu lời nghe những ngô nghê..."
Một tờ đoản biểu tức thì giở ra.
Vua Đường cất lấy xem qua,
Mới hay bạn nghịch ấy là Bá Cao.
Truyền đem chính-pháp thị-tào,
430Lư-công xin để buộc vào có tang.
Ghé tai tâu mật mọi đường:
"Xin làm như thế mới tường đầu đuôi."
Buổi chầu vừa rạng ngày mai,
Đường-hoàng rằng: "Mới tin ngoài lại tâu.
Ải quan rợ Thát quấy rầy,
Định ngày tiến-thảo ngõ hầu an biên.
Cho Đông Sơ với Lạc Thiên,
Kẻ quyền Tham tán, người quyền Đổng binh ,
Văn-thần ra sức đãng bình.
440Dẹp yên khói giặc, quét thanh bụi Hồ."
Hai người nghe nói căn-do,
Trước thềm phủ phục, mướt bồ hôi lưng.
Mai-công ra trước tâu rằng:
"Dám bày lòng kiến xin dâng bệ rồng.
Phen này động việc binh-nhung,
Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung hai người.
Khéo là bày việc trêu ngươi,
Cầm cơ chẩn-mễ, cướp mồi tiểu-di.
Thóc kho, của nước thiếu chi,
450Xin cho chẩn-thải theo y lệ thường.
Lấy đầu hai gã Lư, Hoàng,
Ắt là Thát trở về hàng không sai.
Can chi gây việc cõi ngoài,
Đem tài qua-giáp, ép người văn-chương."
Đường-hoàng nổi giận vội-vàng,
Rằng: "Vì giặc Thát tìm đường hoãn binh."
Kíp truyền đao-phủ chính hình,
Mới hay tấm dạ kiên trinh khác thường.
Hãy còn ngảnh lại triều-đường,
460Miệng còn sỉ-nhục Lư, Hoàng chưa thôi.
Thương thay trung nghĩa như ai,
Sa cơ một phút ra người cửu-nguyên.
Trần Đông Sơ với Lạc Thiên,
Vạ lây cũng phải cách quyền hồi dân.
Hai người thương kẻ trung-thần,
Nghĩ tình bạn-hữu ân-cần thở-than.
Cùng Mai Bạch mới lo toan,
Vào chùa Tướng-quốc bàn-hoàn với sư.
Xin đem linh-cữu để nhờ,
470Giục chàng Mai Bạch về nhà đưa tin.
Mới hay tục-ngữ thế truyền,
Lời rằng: "Họa chí vô đơn"cũng thường.
Lòng chua xót, bước phong sương,
Nửa đường Bạch cũng suối vàng chơi xa.