Ma to dỗ nhớn  (1907) 
của Nguyễn Văn Vĩnh

Bài báo này được viết trong "Đại Nam Đăng Cổ Tùng Báo", số 796 ra ngày 18 tháng 4 năm 1907. Được viết dưới bút danh Thực Trí.

Phong tục An-nam mình, nhiều điều thật không có nghĩa lý gì.

Như có bố mẹ lên lão, hoặc mình đi thi đỗ, cưới vợ, làm nhà, được làm quan, thăng hàm, mà ăn mừng thì còn có nhẽ; nhưng bố mẹ chết, mà mổ trâu mổ bò, mời làng mời nước, biếu-sén hàng sóm láng giềng, thì còn có nghĩa gì nữa ?

Có kẻ nói rằng: làm thế để giả nghĩa cha mẹ. Cái điều cha mẹ chết đi, hồn phách có còn mà trông thấy những sự dương-gian hay không, thì đây tôi không dám bàn, nhưng giả thử các cụ có trông thấy, thì chắc hẳn cũng lắm khi tức cười. Kìa như: có người, lúc cha mẹ còn sống, coi như người ngoài, ra lườm vào nguýt, bon tren từng tí; thế mà lúc cha mẹ vừa mới nhắm mắt lại, đã bò bò, lợn lợn, cỗ cỗ, bàn bàn, bán mẫu ruộng làm ma to, cầm khu vườn lo dỗ nhớn.

Tôi nghĩ không giả nghĩa nào bằng: lúc cha mẹ còn sống, nhà thường thì cố làm ăn cho cha mẹ được hiển vinh; nhà có thì gắng nên tài trí để cha mẹ được danh tiếng.

Tôi tưởng lúc ông-cụ bà-cụ nằm xuống mà nghĩ được rằng: « ta đã sinh ra được con có tài có đức, cho xã-hội được nhờ; thì dù ta từ trẻ đến già, không làm nên điều gì, song đã để lại được dọt máu tốt, để chuộc lấy cái đời vô ích của ta », thì chắc hẳn các cụ thỏa lòng hơn rằng, chết rồi có tư-văn hàng-giáp đến tế-lễ linh-đình.

Cũng có kẻ nói là nợ miệng: ăn của người thì lại phải mời người đến ăn.

Trong một đời người thiếu gì dịp thết khách, lại phải nhân khi bố mẹ chết, ta tưởng đến ơn người cho ta ăn một bữa. Thành ra khi bố mẹ chết, tưởng đến bố mẹ ít, tưởng đến kẻ cho ăn nhiều.

Tôi tưởng làm người, thực có hiếu với cha mẹ, thì lúc cha mẹ thác đi, còn có trí nào mà nghĩ đến những điều thiệp-lịch mấy được, còn có bụng nào mà để vào những sự thết đãi anh em.

Vả làm ra cỗ bàn lại hóa ra mất cả lòng thành hàng sóm láng giềng, bạn-bè thân-thích. Thành ra ai cũng mang tiếng, vị có bữa no mấy đi đưa bà con tới mồ, chớ không phải vị thương vị tiếc bà con mà chịu khó nhọc đi đưa đám.

Sau nữa lại còn một nỗi: vừa mất cha mất mẹ lại còn vừa hết cơ hết nghiệp, hết tang người rồi lại đến tang của. Có đâu lại làm như thế !

Những nhẽ tôi nói đây thì ai cũng biết cả, nhưng tại làm sao xưa nay vẫn biết rằng xấu mà vẫn làm ? Ấy là vì một điều thiên hạ muốn khoe của.

Lạ quá ! Kỳ quá ! ở đời bao nhiêu lúc để hách dịch mà chẳng hách cho !

Kìa như: mình cũng là người, người ta cũng là người, mà có kẻ vật mình ra, thì không thấy biết trọng thân. Để giữa khi bố chết hách mấy đời một phen, khánh gia bại sản cũng đành.

Thôi ! thế như mà, có ông quân-tử đã nói rằng: giống người không chữa được ...[1] phải để hách.

Giả như bây giờ những người quân-tử và đàn anh trong làng nước, nghĩ ra một cách đổi tục lại, phàm ai có cha mẹ mất đi thì ra lệ phải nộp vào cho dân vài trăm quan tiền để làm tràng học, hoặc mở cơ cục gì hay, thì hàng-giáp hay là tư-văn mấy đền tế-lễ, như thế thì cái hách của đứa giại không phải chừa, mà tiền đứa giại vất đi, dùng được làm điều tốt cho người khôn.

Các ông Cử, ông Tú bây giờ, xin đừng làm việc giời cao bể giộng vội, xin hãng cứ bàn việc ấy thế nào cho thành, thì là nước được nhờ lắm.

   




Chú thích

  1. Chỗ này bị mất một chữ