Lẽ tục phú
của Trần Văn Nghĩa

Bài phú này do danh y Trần Văn Nghĩa soạn, được truyền tụng khá rộng. Nguyễn Tá Nhí phiên âm và dịch nghĩa, đăng trong tạp chí Hán Nôm, số 4 năm 1994

Ngán thay lẽ tục !

Ngán thay lẽ tục !

Nước dãy sông mê ;

Đường hun lửa dục.

Nước liêm mấy kẻ dầm dề;

Đường lợi đua nhau chen chúc.

Có trung hậu cũng là trung hậu bạc, mà đoái hoài chi phường khố nhất áo ôm;

Chẳng nhân nghĩa gì hơn nhân nghĩa tiền, phải chiều chuộng kẻ những tiền trăm bạc chục.

Mập mờ phải trái, mụ lão xỏ kim;

Lường gạt ăn thua, làng thần đánh mộc[1].

Khi đắc thế thì đất mặn nên bụt, nghe hơi khá xăm xăm chen gót tới, đen ngỡ đàn ruồi;

Lúc sa cơ thì khôn cũng hoá ngu, xem chiều hèn thỉnh thỉnh xảy tay ra, nhạt như nước ốc.

Chẳng biết ăn cây nào rào cây ấy, thấy bở thì đào;

Chẳng biết giật của ta ra của người, thấy mềm thì đục.

Khó giữa chợ nào ai hỏi, chẳng mua thù chác dữ cũng thờ ơ;

Giàu trên non có kẻ tìm, không ép dấu nài thương mà dạo gịc.

Mềm lưng uốn gối tôi tớ đồng tiền;

Mìm miệng day thay thế thần ống thóc.

Lạ buông thả bán buôn chẳng quản, quen lèn đau càng giáo giở đấu thăng;

Giàu nể nang giật mượn nào mề, khó nếu đến lại ỡm ờ lãi gốc.

Dạ hẹp hòi nào có lượng hiu hiu;

Mặt trơ tráo cũng như loài lọc lọc.

Đến gánh nặng hẳn xôn xao chào hỏi, miệng thớt thớt ngọt như mía nướng đuổi gà khua cá tưng bừng;

Lại ty không nào nhìn nhỏ ỏ ê, mặt sị sị nặng ngỡ đá đeo chửi chó mắng mèo eo óc.

So kè chẳng quản tiếng bon chen;

Thớ lợ lại ghê gan hiểm hóc.

Miệng ngọt nhạt của anh như của chú, thương chi mà thương, thương chửa có chai;

Tiếng đãi bôi con chị ẵm con em, trọng chi mà trong, trọng chưa có cóc.

Đá đưa đầu lưỡi tinh những trương hoàng;

Sấp ngửa bàn tay rặt màu phản phúc.

Mới mát mặt nghĩ khỏi điều trần lụy, vểnh râu lên rằng có chi nghĩ cò;

Đã dày lưng song sợ kẻ tần phiền, bưng tai lại rằng không cần lăng cốc.

Cũng khoe khoang kẻ trượng phu tùng;

Cũng đủng đỉnh người quân từ trúc.

Gả bán so từng gốc dạ, kém lưng đừng cắn móng tay;

Bạn bè đọ những lá gan, cưa cạnh chẳng lìa sợi tóc.

Nào từng biết phải biết chăng;

Muốn những vừa gieo vừa xúc.

Thấy người sang bắt quàng làm họ, thuyền đua thì lái cũng đua;

Làm kẻ khó đánh đọ với giàu, hún mọc tía tô cũng mọc.

Chẳng nói nên vì nỗi tay không;

Chẳng ai đến vì chưng đầu trọc.

Khó đành phận khó, bèo đã biết thân bèo, bèo đâu dám chơi trèo;

Ai dễ biết ai, ốc chả mang mình ốc, ốc lại đâu mang cọc.

Chốn nhân nghĩa nhạt nhẽo hững hờ;

Nơi tài hóa mặn mà săn sóc.

Làng tướng địa[2] bán ruộng trong thiên hạ, chỉ tay hổ trỏ tay long;

Bợm cầu duyên[3] bòn tiền xó thế gian, nghĩ mình vằng khoe mình ngọc.

Vụng kiếm ăn thì chê xác như ve;

Khéo lừa lọc ấy khen khôn có nọc.

Ruồi xanh nọ đứng múa thanh gươm lưỡi, đem lại đầy mật ông bột sắn, cua bể tôm he;

Cò trắng kia ngồi rỉa ngọn giáo lông, đưa vào hẻm bát bịt mâm thau, khay trà ống súc.

Trong luồn cúi năm dạ mười vâng;

Ngoài uốn éo ba lừa bảy lọc.

Kẻ đầu Phật rắp tâm buôn bán Phật, tu chi mà tu, tu mù;

Gã theo thầy toan những lật cả thầy, học chi mà học, học trọc.

Ấy thế mà đua chen lăm áo vóc.

Cũng có kẻ mượn thần kiếm lễ, khua múa tay đuổi bà cô ông mãnh đùng đùng;

Cũng có người nương phi vơ tiền, che miệng nói kẻ khuất người còn dóc dóc.

Lời vô sư bất trách biếng tai nghe;

Chữ vô vật bất linh mau miệng đọc.

Bói võ vẽ vài câu truyền khẩu, cũng mang hòm kiếm vật, tuy chưa thông quẻ triêu quẻ cộng, cũng xem;

Thuốc u ơ mấy vị nhập tâm, cũng xách túi dông dài, dẫu chưa tỏ con tì con thận, cũng bốc.

Chước sinh nhai như thế có ra gì;

Nghề học thuật nghĩ min đà chỉn hóc.

Lại còn thứ mảng cầu vá rách, hoa tai xui thanh quế trấp, sơn dược củ măng chùi;

Lại còn loài bưng mắt lấy tiền, chùi môi khéo dấu lệnh gian, xe quảy tiền mẫu đúc.

Ấy vạch những điều thấy cả mà coi;

Nẻo rờ đến chữ chú con còn xúc.

Mừng nay gặp trời xuân hớn hở, thái hoà chung nhật lệ trung thiên[4];

Vâng trên cầm mối cả ngăn ngừa, thanh giáo chung thâm sơn cùng cốc.

Vì sửa mình nguồn sạch dòng trong;

Vậy tiến đức sấm ran gió giục.

Nhớ xưa: qua lúc loạn ly;

Trải đường thân túc[5].

Cầm đuốc soi cho tỏ, nết thực thà hơn nết văn hoa;

Ăn mắm ngẫm về sau, đường ngay thẳng hơn đường gai góc.

Giàu đừng bắc bậc khoe khoang;

Khó phải gia công xuyết nhục[6].

Gần mực thì đem gần đèn thì sáng, tập khôn mới nên khôn;

Điều lành thì giữ, điều dở thì đừng, chưa học cũng như học.

Trâu giong bò dắt, vui nghiệp nông tang;

Ngựa cưỡi dù che, nức danh lệnh tộc.

Nghèo ai bằng Mãi Thần, Mông Chính[7] biết bao nhiêu ngựa đón xe đưa;

Giàu ai bằng Vương Khải, Thạch Sùng[8]...[9]

Anh hùng hẳn có lúc ra tay;

Quân tử hãy bền gan gặp khúc.

Kẻ có mười phân chẳng có bao, cớ chi mà buộc cổ mèo treo cổ chó, lẩn thẩn bần thần;

Người hay lo bằng kho hay làm, cớ chi mà tham con diếc, tiếc con rô, co ro cúc rúc.

Trời cho vốn đã dành phần;

Vận đến khi nên mấy chốc.

Chẳng thấy người mua lừa bán lọc, bấm tay đốt đổ tay nguôi, sung sướng bao lâu;

Chẳng thấy người ăn xổi ở thì, vào cửa mạch ra cửa tà, khá hèn mấy lúc.

Thương người ấy là thương thân;

Làm giàu sao bằng làm phúc.

Chú khi nay mày khi khác, gọi là cú có vọ mừng;

Ăn miếng chả giả miếng bùi, chớ để ta cười người khóc.

Phật thường độ hữu duyên.

Thiên bất sinh vô lộc[10].

Giàu vì bạn sang vì vợ, nhất kiến như cựu thức[11], dày mỏng xân xiu;

Đông có mây tây có sao, cửu đại hơn ngoại nhân[12], rách lành đùm bọc.

Tốt lỏi không bằng xấu đều;

Ngốc đàn còn hơn khôn độc.

Miễn được áo ba manh cơm ba bát, thủng thỉnh thùng thình;

Nào ai giàu ba họ khó ba đời, lọ phải dồi môi múa múc.

Tham nhiều nên phải rình mò;

Tiêu ít cớ chi khó nhọc.

Chẳng biết gió chiều nào thì che chiều ấy, còn tại hạ phải lạc thiên an mệnh[13], chớ ngất ngưởng tịnh cư ninh thể[14] lấy cao danh;

Phải hay phấn dồi mặt còn giẻ chùi chân, may đắc thời nên trí chủ trạch dân[15] đừng ngoa ngoắt hứng cảnh giai tình mà tiểu cục.

Mỗ nay: Thức lượng hẹp hỏi;

Ngôn từ cục súc.

Tỉnh lòng trần mấy cuốn thanh mang[16];

Say mùi đạo một bầu hoàng cúc[17].

Thong thả rộng xem mọi sách, gẫm cổ kim bĩ thái ấy suy lường;

Nôm na gọi chép mấy lời, khuyên đệ tử ngôn hành cho kiểm thúc.

Há ở đời: chê lẫn sự đời;

Lấy làm tự túc.

   




Chú thích

  1. Kẻ lừa đảo cờ bạc
  2. Thầy địa lý xem mạch đất
  3. Bọn đĩ điếm lừa bịp
  4. Mặt trời rực rỡ giữa tầng không
  5. Lúc co lúc duỗi, ý nói làm quan hoặc ở ẩn
  6. Nhịn nhục
  7. Tên hai người hiền tài thời Hán của Trung Quốc, lúc hàn vi họ rất khốn khổ sau được hiển vinh.
  8. Tên hai người giàu có sang trọng đời Tấn của Trung Quốc, sau thất thế thành ra nghèo hèn.
  9. Đoạn này có lẽ thiếu, vì chưa hết vế
  10. Ý nói : đức Phật đường cứu độ cho kẻ hữu duyên, còn trời thì sinh ra mọi người, không ai là không có lộc.
  11. Mới gặp mà như đã quen biết
  12. Họ xa chín đời còn hơn người ngoài
  13. Vui với số phận do trời an bài
  14. Sống riêng một chỗ cho yên thần
  15. Giúp vua ban ân hệ cho dân
  16. Sử sách
  17. Rượu cúc vàng

 

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.