Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài

Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài - 梁昭明太子分經石臺
của Nguyễn Du

Lương Chiêu Minh thái tử: Lương (502-556) là một trong bốn triều vua thời Nam Triều (Tống, Lê, Lương, Trần). Thái tử Chiêu Minh tên là Chiêu Thống, con của Lương Vũ Đế 梁武帝, tức Tiêu Diễn 蕭統 (502-549), thời Nam Bắc triều 南北朝, hai cha con đều sùng bái đạo Phật. Học rộng, ham nghiên cứu văn học, là tác giả bộ Văn tuyển 文選.

Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa

梁朝昭明太子分經處
石臺猶記分經字
臺基蕪沒雨花中
百草驚寒盡枯死
不見遺經在何所
往事空傳梁太子
太子年少溺菸文
強作解事徒紛紛
佛本是空不著物
何有乎經安用分
靈文不在言語科
孰為金剛為法華
色空境界茫不悟
癡心歸佛佛生魔
一門父子多膠蔽
一念之中魔自至
山陵不涌蓮花臺
白馬朝渡長江水
楚林禍木池殃魚
經卷燒灰臺亦圯
空留無益萬千言
後世愚僧徒聒耳
吾聞世尊在靈山
說法渡人如恆河沙數
人了此心人自渡
靈山只在汝心頭
明鏡亦臺
菩提本無樹
我讀金剛千遍零
其中奧旨多不明
及到分經石臺下
終知無字是眞經

Lương triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ
Thạch đài do kí "Phân kinh" tự
Đài cơ vu một vũ hoa trung
Bách thảo kinh hàn tận khô tử
Bất kiến di kinh tại hà sở
Vãng sự không truyền Lương thái tử
Thái tử niên thiếu nịch ư văn
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân
Phật bản thị không bất trước vật
Hà hữu hồ kinh an dụng phân
Linh văn bất tại ngôn ngữ khoa
Thục vi Kim Cương vi Pháp Hoa[1]
Sắc không cảnh giới mang bất ngộ
Si tâm quy Phật Phật sinh ma
Nhất môn phụ tử[2] đa giao tế
Nhất niệm chi trung ma tự chí
Sơn lăng bất dũng liên hoa đài
Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy
Sở lâm họa mộc trì ương ngư[3]
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ
Không lưu vô ích vạn thiên ngôn
Hậu thế ngu tăng đồ quát nhĩ
Ngô văn Thế Tôn[4] tại Linh Sơn
Thuyết pháp độ nhân như Hằng Hà sa số[5]
Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu
Minh kính diệc phi đài
Bồ Đề bản vô thụ[6]
Ngã độc Kim Cương thiên biến linh
Kì trung áo chỉ đa bất minh
Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ
Chung tri vô tự thị chân kinh[7]

Nơi Chiêu Minh thái tử triều Lương chia kinh
Đài đá còn ghi chữ "Chia kinh"
Nền đài gai góc lấp trong mưa bụi
Trăm loài cỏ sợ lạnh đều chết khô hết
Không thấy kinh còn lại nơi đâu
Chỉ nghe kể chuyện thời xưa
Lương thái tử thời niên thiếu say mê văn chương
Gượng bày đặt phân tách chi ly rắc rối
Phật vốn là không, chẳng vướng vào vật
Có gì tùy thuộc vào kinh mà chia với phân?
Văn thiêng không phải nhờ khoa ngôn ngữ
Cái gì là kinh Kim Cương, cái chi là kinh Pháp Hoa?
Cảnh giới Sắc Không mờ mịt không hiểu
U mê mà theo Phật thì Phật sinh ra ma
Cha con một nhà cùng mù quáng hết
Chỉ trong một niệm, ma tự đến
Ở nơi lăng núi không có đài sen nổi lên
Một sớm ngựa trắng vượt sông Trường Giang
Rừng nước Sở cháy, cây gặp tai họa, cá trong ao bị vạ
Kinh cháy ra tro, đài cũng đổ
Muôn nghìn lời để lại đều vô ích
Chỉ để cho đám sư ngu dốt đời sau tụng đọc điếc tai
Ta nghe nói đức Thế Tôn tại Linh Sơn
Thuyết Pháp cứu người nhiều như cát sông Hằng
Người hiểu tâm này, người tự độ
Linh Sơn chính ở tại lòng ta
Gương sáng không có đài
Bồ đề vốn không cây
Ta đọc Kinh Kim cương hơn nghìn lần
Nhiều yếu chỉ sâu sắc trong đó ta không rõ
Đến nay, dưới đài đá "Chia kinh"
Mới hiểu kinh "không chữ" mới thật là chân kinh

   




Chú thích

  1. Kim Cương, Pháp Hoa: tên hai bộ kinh Phật
  2. Một nhà cha con (cùng không hiểu Pháp). Lương Vũ Đế 梁武帝, năm Phổ thông thứ 8, sai sứ đi thỉnh Bồ Đề Đạt Ma 菩提達摩 về thành đô là Kim Lăng. Đế hỏi: "Trẫm lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?". Sư Đạt Ma đáp: "Đều không công đức. Tại sao không có công đức?. Bởi vì những việc vua làm là hữu lậu chỉ có những quả nhỏ trong vòng Nhân, Thiên, như ảnh tùy hình, tuy có, nhưng không phải thật. Vậy công đức chân thật là gì?. Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được". Sau câu chuyện đối đáp này, Sư biết tâm vua không khế hợp được với pháp mình, bỏ đi
  3. Bạch mã, Sở lâm: hai câu này nói về tích Hầu Cảnh trước là tướng Đông Ngụy, sau hàng Lương rồi lại phản Lương, cưỡi ngựa trắng qua sông Trường Giang đánh Lương Vũ đế. Khi Hầu Cảnh hàng Lương, Đông Ngụy đưa tờ hịch cho Lương, có câu: "Sợ nước Sở mất vượn, họa lây đến cây rừng, cửa thành cháy, vạ lây đến cá dưới ao"
  4. Chỉ Phật Tổ
  5. Hằng Hà là một con sông ở Ấn Độ, hai bờ toàn cát. Hằng Hà sa số: nhiều như cát sông Hằng, câu này sau trở thành một thành ngữ
  6. Bài kệ của Lục tổ Huệ Năng 六祖慧能: "Bồ đề bản vô thụ, Minh kính diệc phi đài, Bản lai vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai?" 菩提本無樹, 明鏡亦非臺。 本來無一物, 何處惹塵埃 (Bồ đề vốn không cây, Gương sáng chẳng phải đài, Xưa nay không một vật, Bụi bặm bám vào đâu?)
  7. Vô tự kinh: kinh không chép bằng chữ. Ý nói đạo ở tâm chứ không phải ở kinh kệ