Lòng người nham hiểm
ẤT-SỬU-NIÊN MỘ-XUÂN (1925)
Tác-giả: NGUYỄN-CHÁNH-SẮT tự Bá-Nghiêm
Tânchâu
Tác-giả giữ bản-quyền, không ai được
in theo nguyên bổn |
Imprimerie de l'Union Nguyễn-văn-Của
Ngày 28 Octobre 1926 xuất bản
Tác-giả: Nguyễn-chánh-Sắt
Tự Bá-Nghiêm
Tânchâu
Ất-sửu-niên, Mộ-xuân 1925.
Tác-giả: NGUYỄN-CHÁNH-SẮT,
Tự BÁ-NGHIÊM.
Gần bước tháng tư, hơi xuân còn đầm ấm, trên núi mai tàn rơi lác đác, dưới hồ sen đương lố xố đơm bông. Thuở ấy vừa tiết tháng ba, chánh là ngày cúng vía Bà nơi trên núi Điện.[1] Lúc bấy giờ, khắp trong lục tĩnh, xiết bao kẻ tới người lui, nườm nượp xe xe ngựa ngựa.
Thật là: Dập diều tài-tử giai-nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.
Nhưng, cũng có người vì lòng thành đến đó mà dâng hương, cũng có kẻ bỡi du-lịch nên tìm đường khiển hứng.
Đang buổi trời mai, vầng đông ánh rạng; lố xố đòi ngàn sương điểm cỏ, lơ thơ mấy cụm gió đùa cây. Kìa một con đường ngay thẳng rẳng, hai bên hoa thảo thanh u, chính giữa đường những khách đi dâng hương, đua nhau kẻ trước người sau, nào là ngựa, nào là xe, rất nên náo nhiệt; còn những khách đi chơi, thì cứ huởn huởn dò lần, tán bộ nhàn hành, rảo bước thung dung, để nhắm xem phong-cảnh. Trong đám nầy lại có một người trai-tơ, tuổi vừa quá hai mươi, khăn áo trang hoàng, và đi và nhắm nhía hai bên, dường như đã say mê san thủy. Còn đương thơ thẩn, mảng xem nước bích non xanh, thoạt đâu nghe phía sau lưng, có tiếng chuông reo thúc leng-keng, lại có tiếng người la lớn tiếp theo: « Ê ếp! » Người trai ấy giựt mình liền nhảy trái qua một bên lề đường mà tránh; bề trong chàng tuy có ý bất bình, mà bề ngoài chàng cũng cứ giữ nét khoan hòa, bèn day lại xem coi, thấy một cái xe mui, thắng một cặp ngựa kim, ở đàng sau chạy tới, trong xe có một người đờn-bà ngồi giữa, độ chừng lối năm mươi ngoài tuổi, mình mặc áo nhung đen, tay đeo cà-rá có nhận hột xoàn, nét mặt tươi cười, trông ra rất có vẽ phong-lưu đài-các. Hai bên lại có hai cô thiếu-nữ, ăn mặc cũng đàng hoàng, trạt chừng 17, 18 xuân-thu, diện-mạo phương phi, dung-nghi tề chỉnh. Xe vừa đi trờ tới, người đờn-bà trên xe liền ngó người trai-tơ ấy mà gặt đầu, chúm-chím miệng cười, tỏ lòng khiêm nhượng, dường như muốn nói lời chi, ngặt vì xe chạy thoát qua mau, nên chưa kịp nói.
Khi xe qua khỏi rồi, chàng-ta và đi và suy nghĩ một mình rằng: « Thật nghĩ mà tức cười cho cái buổi ưu thắng liệt bại nầy, hễ mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giàu hiếp khó, sang hiếp hèn; cho nên xe lửa thì hiếp xe-hơi, còn xe-hơi thì hiếp xe mui và xe kiến, mà rồi xe kiến với xe mui lại lấn lướt người đi bộ; ấy là lẽ tự nhiên, đâu đâu cũng vậy; ối thôi, ta cũng chăng hơi đâu mà phiền trách cái thói dối-giả trong buổi huỳnh-kim thế-giái nầy mà làm chi cho mệt. » Và đi và nghĩ mà cười thầm một mình, rồi cũng cứ việc rảo bước thung dung, đi lần lên trên Điện. Vừa bước đến nơi thì thấy một tòa Cổ-tự, điện vỏ nguy nga, chung quanh thảo mộc diềm-dà, tòng cúc sum sê, rất nên u nhã; phía trước có một tòa Đại-điện, phía sau lại có hai tòa nhà thính cất hai bên đối diện với nhau, rộng lớn thinh thinh, rất có vẽ oai nghiêm tráng lệ. Gần bên đó là Điện thờ Bà, ngày đêm hương đốt đèn chọng huy hoàng sáng lạng. Còn những thiện-nam tín-nữ, kẻ ra người vào, thật không biết số nào mà đếm cho xiết được; trong chùa tăng chúng cũng đông, chuông trống rình-rang, kẻ đốt hương người lạy phật.
Chàng-ta, vừa mới bước vào, xảy nghe có tiếng nói nhỏ nhỏ mà giọng rất thanh thao rằng: « Kìa má, thầy hồi nảy cũng lên tới rồi kia kìa má! » Chàng-ta nghe nói, bèn ngước mặt ngó lên, xem rõ lại té ra là ba người ở trên cái xe mui mà làm cho mình giựt-mình khi nảy. Còn đương ngơ ngẩn chưa biết là ai, bỗng thấy người đờn-bà ấy đứng dậy thi lễ và nói rằng: « Tôi xin lỗi cùng thầy, vì khi nảy xe đang chạy giữa đường, mà đường thì chật, xe thì đông, bỡi sợ việc rủi ro, lại thêm trong lúc bất cập mà thằng đánh xe của tôi nó cũng vô lễ, đã rung chuông mà lại còn la cho rộn, làm cho thầy giựt mình giựt mẩy; vậy mà trong lúc ấy tôi thấy thầy cũng hòa nhan duyệt sắc, chẳng tỏ ý giận hờn, thì tôi biết thầy là người có học, cho nên tuổi tuy còn nhỏ, mà có độ lượng khoan hồng, biết dung nhơn dung vật, hữu trưởng-giả chi phong, tôi hết lòng kính phục; thật tự nảy đến giờ, tôi lấy làm ái ngại chẳng cùng, lúc ấy tôi cũng muốn xin lỗi với thầy, ngặt vì xe đang trờn chạy qua mau, nên tôi không kịp nói; vậy xin thầy hoang hỉ thứ cho. Nhưng tôi chẳng rõ thầy năm nay xuân-thu được mấy, quí-tánh, đại-danh, làm việc sở nào, quê-quán tại đây, hay là ở đâu tới đây mà ngoạn cảnh? » Chàng-ta thấy người đờn-bà ấy diện-mạo đoan trang, cử chỉ ôn tồn, thì biết là người sang trọng, lại thêm nói năng phong-nhã rất có lễ-nghi, nên cũng chắp tay và xá và nói rằng: « Bẩm bà, ấy chẳng qua là việc nhỏ mọn tầm thường, gẩm chăng đáng chi, song đó cũng là tại chú đánh xe, chớ chẳng phải lỗi ấy xuất tự nơi bà, xin bà chớ để ý làm chi mà lao phiền quí-thể. Còn cháu đây tiện-danh là Hoàng-hữu-Chí, tuổi mới 22, quê quán ở Long-hồ, học-sanh trường Sư-phạm Saigon, mới thi lãnh Bằng-tất-nghiệp và đổi lại dạy tại trường tĩnh Tây-ninh đây, vừa được mấy tháng nay, nhơn lúc rảnh rang, nên mới lên đây, trước ngoạn cảnh, sau coi cúng vía. Vậy cháu cũng xin vô lễ mà hỏi thăm bà, chẳng hay bà là người bực chi, quí-ngụ tại đây, hay là ở trong lục-châu đến cúng vía Bà, còn hai cô nầy có phải là lịnh-ái của bà, hoặc em cháu chi, hay cũng người quen mà đồng đi cúng phật; dám xin bà phân hết cho tận tường, kẻo trong lúc xưng hô, tôi e không biết mà lỗi lầm, ắt mang câu vô lễ. » Người đờn-bà ấy mỉn cười, rồi nói rằng: « Tôi không nói dấu chi thầy, tôi đây vốn là một người sương-phụ,[2] cha bầy trẻ tôi xưa làm quan Tri-phủ, cũng ngồi tại quận nầy, mà ổng đã mất lộc[3] hơn ba năm rồi, có để sự-nghiệp lại cho tôi chút đỉnh, cũng vừa đủ xây xài, khỏi lo bề hụt hạt; lại cũng may nhờ có hai đứa con gái của tôi đây, mẹ con hủ hỉ sớm trưa, cũng giải khuây được trong cơn phiền muộn. » Hoàng-hữu-Chí nghe nói dứt lời, liền day lại chắp tay, xá hai cô con của bà Phủ và nói rằng: « Nói vậy hai cô đây đều là lịnh-ái của bà, vậy mà tôi không biết, xin hai cô miễn chấp cho tôi. » Hai nàng ấy vội vàng đứng dậy liểm-dung đáp lễ lại, rồi cũng cứ ngồi lặng ym như cũ. Bà phủ lại nói rằng: « Thật tôi thấy thầy tuổi tuy còn nhỏ mà ăn nói khôn ngoan, nên tôi cũng phục, tưởng là thầy ở đâu xa, chớ thầy cũng ở dạy tại đây, thì tôi mời thầy bữa nào có rảnh, xin đến nhà tôi một phen mà chơi cho biết. » Hoàng-hữu-Chí nói: « Bà đã có lòng chiếu cố, cháu đâu dám chẳng vâng lời, vậy xin bà để xế mai, cháu sẽ tìm đến hầu bà mà tạ ơn huệ-cố. »
Chiều bữa ấy việc cúng Phật xong rồi, bà Phủ bèn giã từ tăng chúng với mấy mụ ni-cô, rồi dắc 2 cô con xuống núi ra về; bà lại đinh ninh dặng dò Hoàng-hữu-Chí, sao sao xế mai cũng đến nhà bà mà chơi, chớ có quên lời hứa mà để cho bà nhọc lòng trông đợi. Hoàng-hữu-Chí dạ dạ vâng lời, lại theo đưa bà ra khỏi cữa chùa một đổi xa xa, rồi mới cúi đầu chắp tay từ giã bà mà trở lại.
Nguyên bà nầy là vợ của quan Phủ Nguyễn-hữu-Ân, tánh-tình vui vẽ, thái-độ ôn hòa, nhà tuy sang mà không kiêu không lẫn; thấy người giàu cũng chẳng nịnh chẳng dua; nói tóm một lời, bà thật là người đạo đức hoàn toàn, ít ai sánh kịp. Tiếc có một đều là bà làm bạn với quan Phủ gần trót ba mươi năm mà chẳng có con. Từ ngày quan Phủ mất lộc, bỏ bà lại một mình, vắng trước quạnh sau, rất nên thê thãm, phàm những việc nhà bất câu lớn nhỏ, ngoài ruộng trong vườn, tôi trai tớ gái, bà liệu lý có một mình, hôm sớm cần cù, lấy làm cực nhọc. Cách chừng 4, 5 tháng trước, bà cũng nhơn đi dâng hương trên núi Điện, thời may bà gặp được hai cô thiếu-nữ, cũng dắc nhau lên Điện mà dâng hương; bà hỏi thăm ra mới biết là con nhà danh-gia lạc nạn, nên bà động mối thương-tâm, mới đem hết cả hai về nuôi làm con, từ ấy đến sau, mới có người thay thế cho bà mà xem sóc việc nhà và sớm trưa hủ hỉ với bà, thì bà cũng được thỏa lòng nơi ngày vãn-cảnh.
Còn hai cô thiếu-nữ nầy là chị em ruột với nhau, chị tên Thu-Cúc, em gọi Xuân-Lan, chị mới mười tám tuổi xuân, còn em thì mười bảy; vẫn là con gái của một quan huyện kia, mỹ-danh là Nguyễn-trọng-Luân. Quan huyện ấy là người đã thanh-liêm mà cang-trực, giàu chẳng bợ, khó chăng khi; những kẻ nghèo hèn mà trong sạch thì ông thương, còn những kẻ giàu-có mà tham-lam thì ông lại ghét; ông tuy tà người trong phái tân-học, làm quan giúp việc cho Đại-pháp chánh-phủ thì mặc dầu, mà bên Nho-học ông cũng siêu quần bạt tụy; phàm một câu văn, một bài phú, hoặc một quyển sách chi của ông viết ra thì ai nấy cũng hoang nghinh, thảy đều vui xem vui đọc; ông thật là người tài-tình lội-lạc, lại quảng giao thiên hạ anh-hùng, tánh-tình hào hiệp, ngôn ngữ như lưu; lại còn một đều nầy nữa mới kỳ: Là hơi ông hát cũng thanh, mà giọng ông ngâm thi cũng nhã. Bỡi đó cho nên, những hàng thức-giả trong lục-châu, đều gọi ông là Nam-kỳ tài-tử. Còn bà Huyện cũng là người dòng-dỏi thơ-hương, bà làm bạn với ông từ ngày bà tuổi mới hai mươi, sanh con cái cũng nhiều; nhưng mà còn nuôi được có 1 trai và 4 gái. Hai cô gái lớn đã có đôi bạn gia-thất tư riêng, duy còn có 2 cô gái nhỏ là Thu-Cúc với Xuân-Lan và một cậu trai út tên là Nguyễn-trọng-Liêm, mới 14, 15 tuổi, vẫn còn đi học.
Bà Huyện nầy là người hiền đức, nhơn thấy ông hay trọng đức thanh-liêm, nên bà hay lo về ngày tương lai, sợ e lúc tuổi già, không có chi dành để, bỡi đó cho nên bà hay tiện tặng, nhựt dạ cần-cù, cứ mỗi tháng nhín bớt trong số bạc lương của ông, chắt lót từ đồng, đem gởi vào kho Tiết-kiệm (Caisse d'Epargne).
Đến khi ông tuổi được năm mươi, ông mới bàn tính với bà, rồi gởi đơn xin giải chức hồi hưu mà dưỡng lão. Khi được giấy hưu rồi thì ông liền dắc hết gia-quyến về cất nhà cữa tại Vĩnh-an-hà là nơi hương-quán của ông. Lúc nầy ông đã được rảnh rang, cho nên ngày chí tối ông chỉ cứ lo trồng cây lập vườn mà chơi cho tiêu khiển; chung quanh nhà thì ông trồng ròng những kỳ-hoa dị-thảo, thơm nực trong ngoài, nơi ao cá, chỗ chậu sen; dòm vào cái cảnh gia-đình của ông thật rất thanh u nhàn nhã
Vã lại ông là một người vẫn có danh thanh bạch đã lâu, cho nên từ ngày ông về ở đó đến sau, tự quan chí dân bất luận là ai, cũng đều kính phục. Lúc bây giờ, ối thôi, biết bao những thân bằng cố hữu, người xu phụ kẻ phùng nghinh, nói sao xiết những nhơn-tình thế-thái.
Ông lại nghĩ rằng: Phàm sanh ra làm người mà muốn cho tư-cách hoàn toàn, để đối đãi cùng xã-hội nơi buổi giao-thời nầy, thì bất luận là trai hay gái, đều phải nhờ học-thuật mà bồi bổ lấy tinh-thần; bỡi đó cho nên trọn năm người con của ông, bốn gái một trai, thảy đều có học. Nhưng lúc ông còn làm quan, nhơn vì công sự buộc ràng, nên ông chỉ lo dạy sơ hai cô con-gái lớn của ông vừa biết đọc biết viết và biết chút đỉnh trong đạo làm người vậy thôi. Duy có ba người con nhỏ sau đây, là hai cô: Thu-Cúc với Xuân-Lan và cậu Nguyễn-trọng-Liêm là con trai út. Cậu trai thì ông cho học tại trường tĩnh An-giang, còn hai cô gái thì ông lại cho vào Nữ-học-đường Saigon mà học nữ-công và trau giồi kinh sử. Vã lại lúc nầy ông đã được về hưu, nên ông có rộng ngày giờ, lúc ông buồn thì ông chỉ cứ ngâm thi vịnh phú mà chơi, khi ông rảnh thì ông lại viết những sách dạy về luân-lý để bảo tồn phong-hóa. Mỗi khi bải trường mà ba người con của ông nghỉ học về nhà, thì ông lại đem sách nho ra mà dạy; ông dạy làm thi làm phú, dạy phong-hóa lễ-nghi, dạy từ lời ăn tiếng nói, dạy cho tới cách cư xử và giao thiệp với đời.
Có lúc trời trong trăng tỏ, gió mát đêm thanh, ông lại khiến đứa ở dọn bàn nhắc ghế đem ra nơi vườn hoa và pha trà ngon cho ông uống, rồi ông mới kêu hết cả ba người con ông ra, dạy kéo ghế ngồi kề bên cạnh. Ông và xơi trà và giảng luận việc đời cho ba người con của ông nghe, một chặp lâu ông lại chíp miệng mà than rằng: « Mấy con ôi! Tưởng khi mấy con đã biết ý cha, vã cha là một người đa sầu đa cảm, nay cha đã già yếu, tuổi quá tri-thiên rồi, ngồi mà nghĩ lại, bình-sanh cha, chỉ có một cái bịnh lo đời, năm chí cuối, những mãng âu sầu mà chẳng có giờ khắc nào cho thơ cái trí được. » Xuân-Lan nghe cha than như vậy, bèn rỉ-rén thưa rằng: « Con vẫn biết ý cha lắm, bỡi cha thấy cái trình-độ của quốc-dân ta hiện nay mà vẫn còn thấp hèn như thế, nên cha lo buồn cũng phải lắm chút; nhưng con nghĩ lại cái sự lo ấy là phận sự của mấy cậu học-sanh, và mấy nhà tư-bổn, chớ chẳng phải một mình cha mà lo cho xiết được; huống chi tuổi cha nay cũng đã lớn rồi, nếu cha cứ chác lấy cái sự lo ấy mãi trong mình, thì con e cho cha một ngày kia rủi phải sanh bịnh hoạn, vạn nhứt mà cha có bề nào thì còn ai mà dạy dỗ mấy chị em con; vậy nên con khuyên cha một lời, xin hảy bảo trọng lấy thân già, sớm khuya hủ hỉ với chị em con mà an hưởng cái hạnh-phước nơi chốn gia-đình, ấy là một đều cần nhứt của con ước nguyện đó cha. » Thu-Cúc nghe Xuân-Lan nói dứt lời, thì phản đối lại rằng: « Nếu em tưởng vậy thì em chẳng phải là con tri-kỷ của cha mình rồi đó; bỡi trí em còn thấp lắm; vậy để chị nói lại cho em nghe: Phàm những kẻ vì sự lo rầu mà sanh ra bịnh hoạn đó là những bọn lục lục dung thường, phàm-phu tục-tử, giá áo túi cơm kìa! Bỡi những hạng người ấy nhứt sanh chỉ cầu có một sự no cật ấm thân mà gọi là ăn sung mặc sướng đó thôi, thoản như có rủi mà phải bước truân-chiên, gặp cơn nguy-biến, thì ắt nó áo não âu sầu, bù-xa bù-xít, vào thở ra than, băn hăn bó hó, chắt lưỡi hít-hà, có khi rầu quá mà phát điên, thậm chí phải thác oan mới là uổng mạng. Chớ như cha của chị em mình đây là người học-thức hoàn toàn, chí khí cao thượng; cho nên, dầu cho có gặp cơn nước lửa, phải bước điên nguy thế nào đi nữa, thì tấm lòng thiết-thạch, cái chí liệc-hoanh của cha mình đây cũng trơ như đá vững như trồng, ai xô cho động, ai rúng cho xiêu; chớ có phải như bọn thô-bỉ kia đâu mà bi lụy hằng ngày, cho đến đổi phải sanh ra bịnh hoạn lận hay sao mà em hòng lo như thế; vậy chẳng là tầm thường lắm chăng em? Nhưng mỗi khi cha mình có buồn, thì chị em mình cứ lựa những thứ nhựt-báo nào cho có giá-trị, hoặc những sách triết-học nào cho kỳ thật là hay, hoặc những Tiểu-Thuyết nào câu văn cho tao-nhã, lý-tưởng cho thanh-cao, rồi đem ra mà đọc; hoặc ngâm ít luật thi, hoặc vịnh vài câu phú cho cha mình nghe chơi cho tiêu khiển; vì nhựt-báo với sách là một món thuốc bổ ngươn, thật rỏ ràng là một phương tỉnh não đề thần của nhà triết-học đó đa em à! Song mà chị em ta cũng còn phải đề phòng, chớ đừng có vô ý rồi nhè những nhựt-báo nói xằng, và những sách lả-lơi vô vị mà đọc thì ắt là làm cho cha mình phải long óc nhức đầu, mà rồi chị em mình đây cũng bắt xây xẩm mặt mày mà phải khốn đa em; nên phải cẩn thận cho lắm mới được...... » Thu-Cúc nói chưa dứt lời, quan huyện liền vỗ vai con, mỉn cười mà nói rằng: « Thật con biết rõ cái tâm-bịnh của cha, vậy mới phải là con tri-kỷ của cha đó. » Thu-Cúc lại ngó Xuân-Lan mà nói tiếp thêm rằng: « Nầy em, chí như những lời của em đã thưa với cha khi nảy rằng cái nghĩa-vụ lo đời đó là phận-sự của mấy cậu học-sanh và của mấy nhà tư-bổn; húy chao ôi! Học-sanh làm chi, mà tư-bổn lại làm chi? Em cũng thường hay xem nhựt-báo, vậy chớ trong khoản chín mười năm mà trở lại đây, em có nghe cái ảnh-hướng gì không? Em có thấy những ông học-sanh nào đi du-học ở ngoại-quốc đến khi tất nghiệp mà trở về xứ rồi, họ có quan tâm gì với xã-hội ta chưa? Tưởng khi chưa. Một chưa, hai chưa, ba bốn cũng chưa. Cái tôn-chỉ của các ổng đi du-học đó đều lấy có một sự vinh thân phì gia mà làm chủ-nghĩa, cho nên mỗi khi lo học cho thành tài rồi thì cứ bấu theo đua chen nhau trong đám quan-trường, chỉ mong có một sự vinh hiển xắp thời rồi trở lại khinh khi khoát nạt đồng-bào mình mà chơi cho thỏa-thích; chớ em đã có thấy ông nào mà lưu-tâm đến sự mở mang cho em cháu mấy ổng hay chưa? Tưởng khi cũng chưa nữa mà! Lại còn thãm một nỗi cho bọn nữ-lưu Nam-Việt ta, có nhiều cô lại thầm trông trộm ước, mong sao cho được làm bà Tú, bà Cữ, mà nhờ chút thơm lây của mấy ông du-học ngoại-quốc mới về. Nhưng, em hãy thử ngẫm lại mà coi; nào, có mấy ai mà đạt được cái hi-vọng ấy bao giờ! Chỉ có một hai cô có phước mà sanh nhằm nhà cự-phú, lúa ruộng mỗi năm cho được một hai trăm ngàn giạ kìa, thì mới còn mong đem cái sự-nghiệp ấy mà đổi lấy cái chức bà Tú, bà Cử, để chưng chơi cho rựt rở với đời; chớ kỳ dư phần nhiều, hễ ông nào học vừa được thành tài, thì đờn-bà ngoại-quốc họ hướt hết đã bao giờ rồi, chớ có còn đâu mà bỏ sót lại cho tới tay con gái nhà Nam-Việt! Cho nên cái sự du-học của mấy ổng đó bất quá hồ-là họ mưu lấy có hai chữ Vị Kỷ đó mà thôi, chớ cũng chưa thấy bổ ích gì cho xã-hội ta đâu mà em hòng trông mong đến mấy ổng. Còn nói qua tới mấy nhà tư-bổn, thì chị lại càng chua xót não nồng. Em nghĩ đó em coi, những nhà tư-bổn của người ta bên Âu bên Mỷ, thường hay xuất bạc muôn ra mà làm đều công-ích, bồi đấp cho quê-hương; kẻ lo lập nhà bảo-cô để nuôi những trẻ mồ-côi, cho khỏi cơ-hàng tất-tưởi, người lại lập học-đường, để giúp con nhà nghèo khổ, chuyên lo ung đúc nhân tài; hoặc cất nhà bảo-sảng bảo-sanh, mà bảo tồn nhân-loại; hoặc hiệp lực với nhau, lo lập Ấu-trỉ-viên để nung nấu cái khí hạo-nhiên cho trẻ bé. Chớ như những nhà tư-bổn trong nước ta đây thì phần đông lại đấm mê bên đường danh-lợi, năm chí cuối, cứ lo thâu liểm, rồi để dành tiền bạc sẵn đó cho nhiều mà chờ cho có cái cơ-hội nào, hoặc tranh cử Hội-đồng, hoặc dành ra Cai Phó tổng, dám liều tốn cho đến năm bảy chục ngàn, có nhiều khi phải đến tán sản khuynh gia mà chưa biết ngán. Còn nói qua việc công-ích đáng làm, thì một đồng su cũng không ai muốn lọi; thế thì em còn tính tới mấy nhà tư-bổn mà làm gì? Hóa cho nên những đấng ưu thế mẩn thời, ai là người không áo não âu sầu, chớ chẳng phải có một mình cha mình đây mà thôi đâu em. » Quan Huyện nghe Thu-Cúc nói dứt lời thì gặt đầu và chúm-chím miệng cười mà nói rằng: « Thật con đã động tất nhơn-tình thế-cố rồi đó. Vã con là gái mà con lại có cái kiến-thức cao thượng như vầy, thì cái sự mừng của cha còn có chi bằng; nhưng cái lời của em con nó khuyên cha khi nảy đó cũng không phải sái, vì nó còn nhỏ hơn con, nên nó chỉ biết có một đều hiếu kính với mẹ cha, chớ nó chưa biết được cái nghĩa-vụ trung thành cùng xã-hội. Thôi, trời cũng đã khuya rồi, mấy con hảy kêu trẻ dẹp đồ, rồi đi nghỉ ngơi cho sớm. »
Thật cái cảnh gia-đình của quan huyện lúc nầy, gồm đủ cả phụ từ tử hiếu, phu xướng thê tùy; cái hạnh-phước nầy còn có chi bằng.
Nào dè đâu Tạo-vật khéo khuấy chơi, anh-hùng đa ma chiết; đất bằng sóng dậy, cảnh chẳng chìu người. Nhà ông đương buổi yên vui, trên êm dưới thuận, thoạt đâu ông vùng tiếp được một tin điển-báo ở Saigon, đánh lại cho ông hay rằng: Ông Phan-mẩn-Đạt là bạn-hữu của ông mà ông đã có đứng ký tên bảo lãnh một số nợ của một hảng buôn kia hơn 5 ngàn đồng, mà nay Phan-công rủi bị hỏa-tai, một nhà buôn bán rất to, vì có một ngọn lửa vô tình, mà trong giây phút phải hóa ra một đống tro tàn rất nên thê thãm, vì vậy mà mối nợ của hảng không phương trả nổi. Bỡi đó cho nên nay hảng ấy nó buộc ông về sự bảo lãnh liên cang, phải trả cho đủ số, bằng chẳng thì nó sẽ kiện xin giam thâu, hoặc xin biến mải gia-sản của ông mà trừ cho đủ nợ.
Lúc bấy giờ, cả nhà ông đều bấn loạn, dường như sét đánh thình lình; đã vậy mà năm ấy ruộng của ông đã chìm, rẩy của ông lại thất; thật rõ ràng là phước bất trùng lai, họa vô đơn chí: thế thì ông còn có tài nào mà giải cái nguy nầy cho khỏi được.
Đương lúc nầy Nguyễn-trọng-Liêm tuổi còn thơ ấu, chưa biết việc chi, còn bà huyện và hai cô Thu-Cúc với Xuân-Lan, hôm sớm âu sầu, lấy làm bối rối. Duy có ông, bề trong tuy cũng lo buồn, mà bề ngoài ông vẫn cứ an nhiên, chẳng ai rõ được.
Đây ký-giả xin nhắc qua việc ông Phan-mẩn-Đạt, nguyên ông nầy vẫn cũng là một người chí khí cao thượng, trước kia ông cũng có làm quan, tức là bạn đồng-liêu mà cũng là bạn đồng-tâm đồng-chí với quan Huyện. Ông nhơn nghĩ vì mình sanh nhằm trong buổi huỳnh-kim thế-giái nầy là buổi ưu thắng liệt bại, mạnh vì gạo bạo vì tiền; những kẻ có chí lo đời, ai ai cũng đều đem hết sự-nghiệp ra mà tranh ưu tranh liệt, vùng vẩy nơi đám thương-trường, hầu có bảo tồn quyền-lợi cho quê-hương; kiếm tư-bổn cho nhiều, để hiệp nhau mà lập Ấu-trỉ-viên, hoặc lập thêm Cao-đẳng học-đường mà ung đúc nhân-tài; dầu được dầu hư cũng chẳng nệ, quyết hiến thân cho xã-hội, chỉ cầu cho đạt được cái mục-đích của mình mà làm gương cho đám thanh-niên đó thôi; phần thì ông cũng đã chán ngán bên phía hoạn-đồ, nên ông mới xin từ chức, để ra ngoài lo dựng nghiệp dinh thương. Trong khoản 5, 6 năm trường mà cái cuộc buôn của ông đã lần lần khoán trương ra rất nên to tác. Ông lại có một người con trai, tên là Phan-quấc-Chấn thiên-,tư dỉnh ngộ, học thức thông minh, tuổi vừa 21, hiện đương học tại Thương-nghiệp cao-đẳng học-đường ở bên nước Pháp, còn một năm nữa mới thi lãnh bằng Tất-nghiệp. Trước kia ông vẫn có hứa kết sui gia với quan Huyện, định đến ngày nào con ông học tất-nghiệp mà về, thì chừng ấy ông sẽ cưới Thu-Cúc cho Phan-quấc-Chấn.
Chẳng dè vận thời điên đảo, phú quí tợ phù vân, một nhà buôn vốn liếng uớc năm ba muôn, mà trong giây phút đã hóa ra tro bụi.
(Viết tới đây ký-giã cũng ngùi ngùi, để bút xuống chíp miệng mà than dài, rồi lại ngước mặt lên mà hỏi thử Hóa-công, vậy chớ cái chưởng-loại nầy, hãy còn mắc cái tội tình gì mà ông nỡ để cho những kẻ có chí lo đời, thường bị việc rủi ro, cho đến nỗi phải bại gia tán sản? Còn những kẻ khán-tài-nô cùng những phường công-tử-bột; thì ông lại để cho chúng nó ăn sung mặc sướng, xuống ngựa lên xe, kẻ thì đem bạc vạn mà chôn theo mấy đám trăng hoa, người thì vật bạc muôn mà đi thua cờ bạc; điếm đàng đỉ thỏa, vô ác bất vi; những trang ưu thế mẩn thì, có đáng buồn cho chưởng-tộc ta chăng?)
Ngày giờ thấm thoát, lật bật chẳng bao lâu mà đã thấy Trưởng-Tòa đến biên tịch nhà cữa quan huyện Nguyễn-trọng-Luân, không chừa một món. Bà huyện thấy vậy thì than trách ông rằng: « Ngày nọ tôi có cãng ông mà ông không nghe, nay đã đến cớ đổi như vầy, sự-nghiệp ắt tiêu-điều, còn chi là danh-giá. » Ông nghe bà than phiền như vậy, thật ông cũng động lòng, song ông cũng lấy lời chánh đáng mà an ủi bà rằng: « Bà nó ôi! Phàm làm người đứng trong võ-trụ, hễ mặc lốt người thì phải biết thương người; rất đổi là người cùng một da, dân cùng một nước mà còn phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau thay! Huống chi là bạn đồng-tâm đồng-chí. Vã Phan-công là trung-hậu quân-tử, có chí khí trượng-phu; trước kia người vẫn có ân nghĩa với nhà ta, lại thêm tôi với người đã cùng nhau hưa kết sui-gia; đến nay mà người có gặp việc rủi ro, ấy cũng bỡi vận thời điên đảo, cơ biến nơi trời, chớ chẳng phải tại người rượu trà cờ bạc, tửu điếm trà đình chi mà sanh ra việc điên nguy như vậy. Ôi thôi! Hễ là đứng trượng-phu xử thế, thì ta phải vì nghĩa mà chung lo chung chịu với anh em, dầu cho có tán sản khuynh gia cũng cam tâm mà chịu, cho tròn cái nghĩa-vụ, chớ biết sao bây giờ! Thôi, vợ chồng ta cũng nên thuận theo lẽ trời mà tùy ngộ nhi an, bà nó chớ có phàn nàn mà phải võ vàng gầy ốm. Tuy vậy chớ chúng ta cũng hổ mà nghe cái tiếng trống vô tình, họ sẽ đem tới mà gióng ình ình nơi trước cữa; vậy thì bà nó hãy xuống Sa-đéc hoặc vô Bặc-liêu mà tránh đỡ một ít lâu, chừng nào qua hồi dông gió, rồi sẽ trở về cũng chẳng muộn chi. » Bà huyện cũng thuận theo ý chồng, liền thu xếp việc nhà rồi từ giã chồng con mà đi lánh nạn.
Bà đi rồi vừa được ít ngày, một đêm kia ông vì buồn bực, thốn thức bồi hồi, nằm không yên giấc, nhơn nghĩ lại từ ngày ông mới để bước vào đường đời cho tới nay, đã hơn ba mươi mấy năm trời, ông nếm đã đủ mùi, ngọt, bùi, cay, đắng, chua, chát, mặn, nồng; đến nay tuổi quá tri-thiên rồi mà hãy còn gặp cơn gian khổ, phải bước truân chiên, nên ông ngụ ý đặt ra một bài thi, rồi ngồi dậy bước lại thơ-phòng, lấy giấy mực viết ra như vầy:
Khuấy khỏa làm chi hỡi Hoá-công?
Ba mươi năm mấy chữa vừa lòng,
Tuổi xanh luốn chịu đều cay đắng,
Tóc bạc còn mang tiếng mặn nồng,
Thân phận đã dày cơn gió bụi:
Công danh chưa toại chí tang bồng,
Xiết bao xô đẩy người như thế:
Không lẽ mà ông khuấy tới cùng.
Ông viết rồi vừa đọc vừa ngâm một mình, chẳng dè Thu-Cúc cũng vì lo buồn mà ngủ chẳng yên, còn đương mơ màng, bỗng nghe tiếng cha ngâm thi, liền ngồi dậy lóng tai nghe rõ hết đầu đuôi, vùng sa nước mắt, bèn bước ra rĩ rén thưa rằng: « Chừ trời cũng đã khuya rồi, sao cha chưa nghỉ, còn thức làm chi cho mệt vậy cha? » Ông đáp rằng: « Cha nhơn buồn lòng, nên ngụ ý mà nghĩ ra được một bài thi, nên phải rán viết ra đây, kẻo sợ để sáng ra ngày mai rồi mà quên mất đi thì uổng lắm. » Và nói và lấy bài thi trao ra cho Thu-Cúc xem. Thu-Cúc vói tay tiếp lấy bài thi đọc đi đọc lại và suy nghĩ một hồi lâu rồi thưa rằng: « Luôn đây con cũng nghĩ được một bài, song chẳng phải là con họa vận; con lấy theo điệu liên-huờn mà nối với bài thi của cha, họa may có nhờ cái hơi phù hứng trong đấy mà về sau cha con ta có thể phục hồi cựu nghiệp lại chăng? Vậy xin để con viết ra cho cha xem, ngõ nhờ cha phủ chánh. » Nói rồi liền lấy giấy viết ra, bài thi ấy như vầy:
Tới cùng rồi ắt có ngày xong,
Người phải trời đâu nỡ phụ lòng;
Xô đẩy thế nào rồi lại đỡ,
Lấp ngăn cho mấy cũng là thông,
Lá lay trối kệ loài đen bạc,
Son sắt lòng ta cứng tợ đồng.
Thẳng rẳng đường đời xăm xúi mãi;
Còn khi may gặp hội mây rồng.
Ông xem hết bài thi rồi day lại ngó Thu-Cúc mà nói rằng: « Trọn bài thi của con làm đây cũng là khá, duy có cặp luận, con đối chưa được mấy chỉnh; nhưng đó cũng bỡi cái lòng của con, vì quá ghét những lũ vong ân bội nghĩa, phản phúc tiểu-nhân, nên nó lộ ra trong hai câu thi ấy; thôi, cũng nên để vậy, chớ chẳng cần phải tô điểm lại làm chi mà làm cho mất cái tinh-thần của con trong cơn cảm hứng. »
Lúc ấy Xuân-Lan cũng vừa thức dậy, nghe cha với chị mình còn đang luận thi, bèn vội vàng chổi dậy đi nhúm lửa lò, bỏ than quạt lửa, nấu nước pha trà rồi đem cho cha uống. Ông vừa uống trà vừa nhìn sửng hai cô con, rơi đôi giọt lụy mà nói rằng: « Hai con ôi! Cha vẫn yêu thương chị em con lắm, bấy lâu một bước cha chẳng nỡ lìa, đến nay mà vận nhà điên đảo, gặp lối hiễm nguy, cái thế nó buộc cha con ta phải tạm lìa nhau; vậy trước khi cha để bước lên đường, cha có mấy lời dặn bảo chị em con đây, chị em con phải chữ dạ ghi lòng mà giữ gìn cho tròn danh-giá; ấy là một đều cha ước mong hơn hết. Vã em con là Trọng-Liêm vẫn còn thơ ấu, khờ dại chẳng biết chi, chớ như hai chị em con đây tuổi đã trộng rồi, cũng vừa đúng cái thời-kỳ nghi-gia nghi-thất; theo lẽ thường thì lúc nầy là lúc cha mẹ phải kềm thúc giữ gìn, chớ chẳng nên rời ra trong giây phút; nhưng mà, đó là những con-gái nhà tầm-thường kia, chớ như hai chị em con là gái biết đều, nói ít hiểu nhiều, cha cũng khỏi lo cho lắm. » Nói tới đây ông liền nhìn sửng Thu-Cúc một hồi rồi ông lại lau nước mắt mà nói rằng: « Nầy con, còn một việc nầy nữa là một việc rất quan hệ về cuộc trăm năm của con mà bấy lâu cha thấy con vẫn còn thơ-ấu, mãng lo ăn học, nên cha chưa tỏ cho con hay, đến nay con cũng đã khôn lớn rồi, lại thêm cha con ta cũng gần phải lìa nhau; vậy thì cha cũng nên nói cho con rõ mà giữ gìn danh-tiết cho nhà người. Nguyên lúc con còn ăn học trong trường, cha nhơn thấy thằng Phan-quốc-Chấn là con trai của anh Phan-mẩn-Đạt, thông-minh dĩnh ngộ, hữu quốc-sĩ chi phong; lúc nó chưa đi du-học bên nước Pháp, thì nó vẫn thường theo cha nó tới lui cơm nước nơi nhà mình, tưởng khi con cũng đã thấy biết nó rồi. Bỡi vậy cho nên cha đã hứa hôn với cha nó mà định gả con cho nó. Nay tuy là rủi vì tai biến của cha nó mà liên lụy cho tới nhà mình thì mặc dầu, song ta cũng phải giữ gìn lời hứa cho trọn trước trọn sau; chớ chẳng nên học cái thói giả-man, hễ mỗi lần đi làm sui, thì cứ xách cái bàn toán ra mà tính trước, chừng thấy người lỡ bước sẫy chơn rồi ngã lòng thối chí; ấy là một đều mà bình-sanh cha vẫn ghét lắm đa con. Thôi, cha cũng chẳng cần phải nói chi cho nhiều nữa; cha chỉ xin hai chị em con phải biết rằng người đời họ thường lấy bạc tiền mà làm sự-nghiệp, còn cha con nhà mình đây thì chỉ có lấy cái thanh-danh mà làm sự-nghiệp đó thôi; ấy vậy phận hai con là gái, thì phải trọng lấy tiết trinh, làm làm sao cho trong như giá trắng như ngần; được như vậy thì chẳng những hai con đây là một cặp ngọc báu của nhà mình, mà lại cũng là một đôi gương lành của Việt-Nam Xả-hội đó đa hai con à! » Lúc bấy giờ, hai chị em Thu-Cúc với Xuân-Lan, tuy đã thoát cái thường-tình nhi-nữ thì mặc dầu; song mà, vì phụ-tử tình-thâm, cho nên trong cơn tử-biệt sanh-ly, dầu cho có thiết thạch tâm trường, cũng khôn ngăn giọt lụy. Khi Xuân-Lan nghe ông nói dứt lời, liền khóc tấm-tức tấm-tưởi mà hỏi rằng: « Chẳng hay cha tính đi đâu? Trú ngụ xứ nào, xin nói cho chị em con biết, phòng sau cho tiện bề tin-tức viếng thăm. » Ông nghe lời hỏi rất chơn thành, bèn lau nước mắt vuốt ve con mà nói rằng: « Xuân-Lan con ôi! Bốn biển là nhà, cha chưa biết đâu mà định trước; cha chỉ khuyên con có một đều là phải chữ dạ cho bền mà ghi nhớ những lời của cha đã đinh ninh dặn bảo, chớ như cha đi phen nầy đây, có lâu lắm là một năm, bằng mau nữa cũng năm bảy tháng, dầu thế nào cha cũng ráng lo cho phu thê phụ tử đoàn viên; hai con hãy an lòng, để cho cha dời gót. » Xuân-Lan nghe vậy liền ôm cứng cánh tay cha, khóc nứt-nở và nói rằng: « Cha ôi! Lời cha đã ân cần dạy bảo, thì chị em con phải tạc dạ ghi xương, ngặt có một đều là mẹ con đi đã trót tuần, chưa nghe tin tức ở đâu, nay cha lại đành bỏ chị em con mà đi nữa; mà cha cũng chưa quyết định cư xử nơi nào, ôi! Thế thì, từ đây góc biển ven trời, nắng mưa thui thủi quê người biết đâu. Thoản như trong cơn mưa gió, may rủi lẽ nào, thì chị em con mới biết đâu mà thăm viếng. » Nói tới đó rồi lại khóc mùi; làm cho ông cũng phải động lòng mà rưng rưng nước mắt. Thu-Cúc cũng sụt sùi lụy ngọc, bước tới thưa rằng: « Cha ôi! Nay cha phải lìa chị em con mà đi lánh nạn, vậy thì từ đây thiên các nhứt phương, mẹ cha góc biển, con cái ven trời; từ xưa đến nay, thật con chưa hề thấy cái thãm-cảnh nào như cái thãm-cảnh của cha con ta lúc nầy. Tuy vậy, song chị em con cũng phải nhắm mắt đưa chơn, ôm lòng mà chịu, chớ biết sao bây giờ. Nhưng con chỉ có lo là lo cho cha già yếu, tuổi quá tri-thiên, nơi xứ lạ quê người, khi ương yếu biết lấy ai mà nương cậy. » Thu-Cúc nói tới đây nước mắt chan hòa, liền úp mặt trong mình cha mà khóc mùi khóc mẩn, chẳng nói chi được nữa. Lúc bấy giờ, dầu cho quan Huyện mà có cái gan bền như sắt, ruột cứng tợ đồng đi nữa, cũng phải xiêu lòng, vì con mà rưng rưng giọt lụy.
Còn đương bịnh rịnh, đồng-hồ đã gõ 3 giờ, ông liền lau nước mắt, lấy lời nghiêm chánh mà khuyên giải con rằng: « Hai con ôi! Hai con đừng bận biệu làm chi, vã người sanh trong Hoàn-võ, bi hoan ly hiệp là lẽ thường; thôi, hai con hãy an lòng, để cho cha dời gót. » Miệng ông tuy nói vậy, mà lòng ông cũng vẫn ngùi ngùi, còn hai cô con thì giọt lụy sụt sùi, ruột đau từ đoạn.
Ấy mới thật là:
Đau lòng kẻ ở người đi,
Lụy rơi thấm đá, tơ chia rã tằm.
Khi ông đi rồi, chẳng mấy ngày thì sự-nghiệp cữa nhà của ông đều bị phát mải hết, mà trừ cũng chưa đủ số nợ ấy, thật khổ biết dường nào! Thật là cuộc đời dời đổi, thương hải tang điền; một cái cảnh gia-đình của ông xem rất vẽ vang, trong vui ngoài đẹp như vậy; bỗng nhiên vùng đất bằng sóng dậy, trong một phút mà phải tiêu điều; những kẻ có lương-tâm, thấy cái cảnh-tượng như vầy, ai mà chẳng đau lòng xót dạ.
Lúc nầy Thu-Cúc với Xuân-Lan cũng nhờ có chút đỉnh bạc tiền của ông để lại, bèn đem ra mua một cái nhà tranh cũng gần lối đó, chị em khuya sớm hủ hỉ với nhau, thêu gối mạng khăn bán lấy đồng tiền mà đấp đổi với nhau và nuôi em là Trọng-Liêm ăn học.
Mà thật cũng ngán cho cái thói đời, lúc ông mới về tạo lập gia-cư, trong nhà thì tôi trai tớ gái đã rần rần, ngoài ngỏ những khách quí bạn sang thêm rộ rộ. Đến nay nhà ông rủi mà gặp hồi lưu-ly điên-bái, sa cơ thất thế đi rồi; ối thôi! Một khóm lều tranh không kẻ đoái, hai gian nhà lá chẳng ai màng. Thật rõ ràng là:
Nhơn-tình tợ chỉ trương trương bạc,
Thế sự như kỳ cuộc cuộc tân.[4]
Một đêm kia, hai chị em chong đèn đem mặt gối căng ra, rồi ngồi lại vừa thêu vừa trò chuyện với nhau, nhơn nhắc tới những chuyện đâu đâu, xiết bao trăm thãm ngàn sầu, dòm lại trong nhà, vắng trước quạnh sau, liền nhớ tới mẹ cha, vùng sa nước mắt.
Ôi! Xưa sao nhiều kẻ ra vào?
Chừ sao vắng trước quạnh sau một mình.
Một chặp lâu Xuân-Lan bèn lau nước mắt rồi nói với Thu-Cúc rằng: « Nè chị! Hồi mình còn ở đằng cái nhà ngói lớn của mình đó, đã có cha mẹ mình ở nhà, lại thêm bạn bè rần rần rộ rộ, lúc ấy em thấy những bạn hữu của cha mình sao mà họ tới tới lui lui thường quá; mà ông nào ông nấy coi bộ cũng anh anh em em, làm ra như tuồng thân-thiết với cha mình lắm vậy. Thật hồi đó em mảng lo có một việc cơm cơm nước nước mà mệt đa chị. Rồi bây giờ sao không thấy mấy người ấy họ tới lui nữa, có nhiều khi em đi chợ, em cũng có gặp họ, mà họ lại ngó ngang, họ coi em như kẻ thù của họ, chớ họ không có mừng mừng rở rở và kêu em bằng cháu cháu con con như hồi đó vậy nữa đâu chị à! Thật cái nhơn-tình gì mà vô doan quá chị há! » Thu-Cúc nghe Xuân-Lan nói mấy lời, liền chíp miệng mà than rằng: « Nhơn-tình lãnh noản, thế-thái viêm lương, hơi sức đâu mà nói cho mệt vậy em! Nhưng, cũng có một hai người vẫn còn nghĩ tình giao hảo với cha mình mà chiếu cố chị em mình đó là những người trung hậu quân-tử, hữu thỉ hữu chung. Chớ còn nói chi những bọn phàm-phu tục-tử, phản phúc tiểu-nhân, hễ lúc thạnh thời thì nó lân la lui tới, xu phụ phùng nghinh, nào là rượu thịt, nào là cơm canh, chị chị anh anh, tình thân-mật biết bao là khắn-khít. Tới hồi vận bỉ, hễ nó nghe chừng có sa sút lẽ nào, thì chẳng những nó đã lánh xa, lại còn khua môi uống lưỡi, kiếm chuyện dèm pha, nói chùng nói lén, khi bạc dể duôi, thêm thừa thêu dệt, chiết bác người, làm cho hư danh-giá của người, cho vừa cái lòng gian ngoan giả dối của nó; ấy là loài nhơn diện thú tâm, nói sao cho xiết. Lúc đó chị thấy những bọn ấy thường tới lui bợ đở, làm ra tuồng anh em thân-mật, đặng có cậy cha mình giùm giúp cho chúng nó những việc nọ việc kia, thì chị biết nó là bọn dĩ-lợi-giao,[5] bọn dối giả bề ngoài, nên chị có lấy câu: Luận giữ thị đốc, quân-tử giả hồ? Sắc trang giả hồ?[6] mà khuyên can cha mình đừng có chơi bời giao thiệp với chúng nó làm chi, thì cha mình lại cười mà nói với chị rằng: « Cha vẫn biết chán hơn con, đợi gì con phải nói. Nhưng, cha nghĩ cái câu: Điểu thú bất khả giữ đồng quần, ngô phi tư nhân chi đồ giữ, nhi thùy giữ?[7] Bỡi vậy cho nên cha phải lấy theo cái độ lượng của đức Phu-Tử mà đối đãi với người đời, chớ hơi sức đâu mà cố chấp lắm vậy con. » Cái lời nói ấy đến nay vẫn còn văng vẳng bên tai; thật chị nghĩ lại cái độ-lượng của cha mình thinh thinh như biển, đối với quân-tử cũng xong, mà đối với tiểu-nhân cũng được. Thôi, chừ trời cũng đã khuya rồi, hãy dẹp đồ đi mà nghỉ ngơi cho sớm em. »
Lần hồi ngày tháng tợ thoi đưa, bóng thiều-quang như tên bắn, từ ngày quan Huyện để bước lên đường, lật bật mà tính đã ngoài hai tháng.
Bữa nọ chị em đương ngồi trong nhà, vùng nghe tiếng chó sủa vang, ngước mặt ngó ra thấy có tên trạm ở ngoài sân bước vào, trao một phong thơ. Xuân-Lan tiếp lấy, thấy chữ đề ngoài bao, nhìn biết là tuồng chữ của cha mình, chị em mừng rở vô cùng, liền xé ra đọc chung với nhau.
Bức thơ ấy như vầy:
« Mấy con yêu dấu ôi!
« Từ ngày cha xa cách mấy con, thắm thoát mà đã quá hai trăng rồi, từ ấy nhẩng nay, chẳng có giờ phút nào mà cha không áo não âu sầu, nhớ thương con trẻ; nỗi lo cho phận mẹ con, nương náu nơi nhà người, đói no ấm lạnh, nỗi lo cho phận trẻ ở nhà, hiêu quạnh trước sau, nỗi lo cho cái tiền-đồ của cha sau nầy chưa biết rủi may may rủi lẽ nào; vì vậy mà nó làm cho cha thân tâm lưỡng địa, tình chữ đa đoan; ngổn ngang trăm mối bên lòng, vơi vơi đất khách não nồng cố hương. Thật đương đứng trong cái cảnh cùng sầu nầy, dầu cho hình đất tượng cây, cũng phải nhăn mặt nhíu mày; huống chi cha là một người đa sầu đa cảm.
« Một đêm kia, mấy ông bạn của cha, ban đầu còn khuyên giải chuyện trò, sau lần lần trời đã khuya rồi, mấy ổng đều ngáy pho pho, mê man giấc điệp.
« Lúc bấy giờ, còn cha ngồi đó trơ trơ, một người một bóng, lo tới tính lui, đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời. Cha nhơn lấy cái cảnh buồn nầy mà ngụ ra một bài thi, nên cha gởi luôn về cho mấy con, để tỏ tấm lòng hoài cảm.
« Thi rằng:
« Mấy bước quan-san mấy bước sầu,
« Ngồi đây mà tưởng chuyện đâu đâu,
« Tấc lòng bận-bịu chia đôi ngã,
« Trăm mối ngổn-ngang chứa một bầu,
« Chúng bạn mê man rền tiếng ngáy,
« Mình ta trằn trọc trót canh thâu,
« Biết ai gởi phứt nùi tâm sự;
« Còn chác làm chi cái bịnh rầu.
« Nói cho phải, từ hôm cha lên ở đây tới nay, những anh em chúng bạn họ thấy cái tình-cảnh của cha gian-truân như vậy, họ sợ cha buồn rầu mà sanh ra bịnh hoạn chăng; cho nên mấy ổng thường hay kiếm lời khuyên giải cha, nay rủ đi chỗ nầy, mai kêu đi chỗ nọ, hoặc xơi trà mà đàm luận việc đời, hoặc ngồi ngựa mà đi giạo xem mấy nơi thắng-cảnh. Nhưng, đi thì đi vậy, chớ bề ngoài tuy cha cũng nói nói cười cười, cho vui lòng chúng bạn, mà bề trong cha vẫn cứ riêng tưởng một mình, dầu cho ai cũng vậy; đương lúc lưu-ly điên-bái như vầy, nếu có may mà được đến chốn Bồng-lai, được xem những kỳ hoa dị thảo, thủy tú san thanh đi nữa, thì trong lòng buồn vẫn cũng hoàn buồn, vì vậy mà cha lại nhớ tới câu:
« Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?
« Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
« Rồi cha lại nhơn lấy câu ấy mà làm đề, ngụ ra một bài thi nữa, họa là nó có hã hơi chút đỉnh chi chăng. Nay cha cũng biên hết mà gởi về cho mấy con; đặng để làm kỷ-niệm cái ngày của cha con ta phải bước lưu-ly nầy.
« Thi rằng:
« Cảnh nào là cảnh chẳng đeo sầu,
« Người gặp lúc buồn cảnh cũng âu;
« Mây tỏa muôn chòm non núi ũ,
« Mưa sa mấy giọt cỏ hoa xàu,
« Vơi vơi lối cũ lòng ngao ngán,
« Thui thủi quê người dạ đớn đau.
« Thoản mảng nhớ thương ba trẻ dại,
« Trống thành nghe đã giục canh thâu.
Hai chị em xem hết đầu đuôi rồi, nước mắt chảy ra dầm-dề, tấm lòng thương mẹ nhớ cha, chẳng có bút mực nào mà tả ra cho rõ được.
Chị em than thở một hồi, Thu-Cúc bèn lấy giấy mực họa vận theo bài thi sau để tỏ tấm lòng thương cha nhớ mẹ, ngâm đi đọc lại một hồi lâu rồi mới phong lại gởi lên cho cha.
Bài thi ấy như vầy:
Cảnh sao cảnh khéo giục cơn sầu,
Ngấm cảnh thêm buồn dạ phải âu:
Thơ kím theo mình lòng cũng toại,
Cỏ hoa trông chủ sắc như xàu;
Thương cha bảy lá gan chua xót,
Nhớ mẹ trăm chìu ruột quặn đau,
Kính lạy thung-đường xin bảo trọng:
Đất đông dầu mất đất dâu thâu.
Bất-hiếu-nữ, Thu-Cúc,
phụng hòa nguyên vận.
Chẳng dè cái nhà của quan Huyện, đương gặp hồi vận bỉ, tai nạn dập dồn, hết nạn nầy tới nạn kia, thật là Tạo-vật khéo khuấy người, chua cay cho đến thế. Trong lúc hai ông bà, đều đi lánh nạn, còn công-tử Trọng-Liêm cũng mắc đi học, ở nhà chỉ còn có hai chị em Thu-Cúc với Xuân-Lan là gái đương chừng sen-ngó đào-tơ; những quân lang-tử giả-tâm, thấy vậy nên mới đem lòng khi dể, ban đầu nó còn cậy mấy con mẹ đờn-bà dài cằm rộng miệng, lần mò lui tới lân la, kiếm những lời nói rất êm tai mát dạ, dùng những câu văn như giọng quyển tiếng kèn, mà phỉnh phờ dụ dỗ. Nhưng mà, hai chị em cô đều nhờ có nếm mùi học-thức; gia dĩ cái gia-đình giáo-dục của quan Huyện rất nghiêm-trang, rất đoan-chánh; hóa cho nên hai chị em cô đã ra mặt gái hiền, đức-hạnh hoàn toàn, nét trinh-bạch làu làu như ngọc đúc. Nhờ vậy mà những quân vô-loại ấy, dẫu cho cái miệng ngọt tợ đường, cái lưỡi bén như gươm đi nữa, cũng khó mà nói cho hai chị em cô xiêu lòng được. Sau thét đi rồi, chúng nó lại sanh cái thói giả-man, khoét vách rình hè, làm cho hai chị em cô chẳng có đêm nào mà dám ngủ cho yên giấc.
Một bữa kia, Thu-Cúc mới tính với Xuân-Lan rằng: « Nè em, chị thấy nhơn-tình nham hiểm, thế-đạo kỳ khu, mà chị ngán ngầm; nay chị nghĩ lại dầu cho chị em ta mà có rắn gan cách nào đi nữa thì ở đây cũng bất tiện, cho nên hôm trước đây chị đã lo gởi gắm Trọng-Liêm ăn học đã yên nơi yên chỗ rồi; vậy nay hai chị em mình phải cùng đi với nhau, thẳng lên Saigon, hoặc lên Tây-ninh mà tìm kiếm cha mẹ chẳng là tốt hơn, chớ ở đây tuy cũng có một vài ông bạn tri-thức của cha mình chiếu cố mặc dầu; nhưng mà trong lúc đêm vắng canh khuya, những loài lòng thú dạ lang nó bấu theo khoét vách rình hè mà khuấy nhiểu chị em mình mãi như vầy, thì mấy ổng có hơi đâu mà đề phòng cho châu đáo được; ý em nghĩ sao? » Xuân-Lan nghe nói nét mặt tươi cười, tấm lòng phới phở, mừng rở vô cùng, bèn đáp rằng: « Em vẫn cũng tính như vậy hổm nay, song em không biết ý chị thể nào, nên em chưa dám nói, nếu nay mà chị cũng có lòng như thế, thì rõ ràng là ý hiệp tâm đầu, tình thân-ái của chị em mình còn ai hơn nữa. Nè chị, mà em nghĩ lại thật chị em mình có phước quá chị há! » Thu-Cúc vẫn biết ý em, song cũng giả ý sửng sờ, bèn nghiêm nét mặt mà hỏi rằng: « Sự-nghiệp nhà mình nay đã tiêu điều, sao em còn gọi rằng có phước? » Xuân-Lan cười chúm chím mà đáp rằng: « Chị khéo hỏi mắc em thì thôi đa! Vậy chớ mọi lần chị dạy em những gì, mà nay chị lại hỏi em như vậy? Sự-nghiệp dầu còn dầu mất ấy là tại lẽ trời, huống chi tiền tài là thân ngoại chi vật, mất còn còn mất cũng chẳng sá chi; vì con người ta ở đời, chẳng phải là lo nghèo, một lo không có đức hạnh mà thôi chớ! Chí như cha mình thật là một người đạo đức hoàn toàn, cư xử với con, lòng dạ rất hiền từ; cha như vậy thì rất dễ cho chị em mình hiếu thuận, vậy nên em mới gọi là có phước. Chớ còn nói chi những kẻ bạo tàn, tánh tình lổ mảng, ăn nói dọc ngang, cờ bạc rượu trà, say sưa vất mả, đối đãi với vợ con rất là khắc bạc; những kẻ như vậy, dẫu cho có con mà thật đại hiền đại hiếu như vua Thuấn đi nữa, cũng khó mà ở cho hiếu thuận được; phải vậy không chị? Bỡi em so sánh như vậy, nên em yêu thương cha mình thật là vô hạn. Nay nghe chị tính dắc nhau đi tìm kiếm mẹ cha, thì em mừng lắm, vậy thì chị em mình hãy lo thu xếp việc nhà, đặng có tính đi cho sớm nghe chị. »
Chị em bàn tính xong xuôi, bèn gởi nhà cữa lại cho một bà già hàng xóm, rồi dắc nhau ra đi. Lên tới Saigon tìm kiếm trót tuần mà không nghe tin tức mẹ cha ở đâu cả. Hỏi thăm ông Phan-mẩn-Đạt, thì người ta lại nói ông vì nhà cháy mà buồn, nên phải ra Vủng-tàu mà chơi cho giải muộn; ông đi nay cũng trót tuần, mà chưa thấy ông về. Chị em bơ ngơ báo ngáo, liền nhứt định tháp tùng xe ô-tô đưa bộ-hành, tuốt lên Tây-ninh mà kiếm.
Khi lên đến nơi rồi thì hai chị em cứ hỏi thăm tìm tới mấy nhà anh em quen thuộc của cha mình, chắc sao hai ông bà nếu còn tại Tây-ninh thì ắt ở nơi mấy nhà người ấy.
Chẳng dè hỏi thăm ba bốn nhà quen mà ai ai cũng đều nói y có một lời rằng ông lên ở đó đã hơn hai tháng, còn bà thì lại xuống Bacliêu. Nay lại nghe ông tính hiệp với Phan-Công mà ra Bắc, nên ông đã trở xuống Saigon hổm nay cũng hơn trót tuần rồi, song không biết hai ông đã cùng nhau xuống tàu hay chưa. Hai chị em nghe nói hổi ôi, hai hàng nước mắt rưng rưng, khó đứng khôn ngồi, lấy làm thất vọng. Phần thì trong lưng tiền bạc chẳng có bao nhiêu, mà hổm nay lớp đi tàu lớp đi xe, cũng gần muốn hết. Lúc bấy giờ, hai chị em không biết liệu thế nào, tới khôn đường tới, lui khó nẻo lui, dùng dằng dở ở dở về, rất nên khốn đốn, Xuân-Lan bèn nói với chị rằng: « Em có nghe người ta đồn đãi rằng Bà trên núi Điện rất linh, vậy thì tiện đây hai chị em mình cũng nên lên đó mà xin một lá xăm, thử coi cha mẹ mạnh giỏi thể nào và cha đã xuống tàu ra Bắc hay chưa, cho tiện bề tìm kiếm; chị nghĩ sao? » Thu-Cúc bình sanh ít hay tin những việc xin xăm hỏi bói, mà nay vì lòng quá thương cha mẹ, nên cực chẳng đã, phải thuận theo lời em, bèn mướn một cái xe kiến đi lên núi Điện.
Vào tới chơn núi rồi, thấy có một cái xe mui cũng đậu tại đó, lại nghe tên đánh xe của mình kêu tên đánh xe bên kia mà hỏi rằng: « Anh đi với bà phải không anh? » Tên kia trả lời có một tiếng rằng: « Ừ », mà thôi. Hai chị em nghe vậy thì liệu biết cái xe ấy là xe của một bà nào sang trọng chi đây, song cũng chẳng lưu ý đến làm chi, cứ việc xuống xe rồi dắc nhau đi bộ lần lần lên Điện.
(Chẳng dè cái xe ấy là một cái xe rất có nhiều duyên-cớ, rất có quan-hệ với cái tiền-đồ của hai chị em. Nhờ nó mà hai chị em được bảo tồn danh-giá, nhờ nó mà hai chị em được no dạ ấm thân; nhờ nó mà hai chị em khỏi lở bước trái chơn, lưu linh đất khách; nhờ nó mà cái kết cuộc của hai chị em sau nầy rất may mắn, rất vẽ vang, biết bao là hạnh phước; ấy là cái xe của một vị cứu-tinh của hai chị em mà không ai ngờ đó).
Khi lên tới Điện, hai chị em khép nép bước vào, thấy có một bà ni-cô ngồi giữa thính-đường, độ chừng năm mươi ngoài tuổi, chơn mày đen, con mắt sáng, miệng vuông da trắng, cốt cách thanh kỳ, thật rõ ràng là một bà đạo đức ni-cô, rở rở có thần tiên khí tượng; đang ngồi trò chuyện với một bà tuổi cũng lối năm mươi, ăn mặc đàng hoàng, nết na tề chỉnh. (Bà nầy tức là bà Phủ Nguyễn-hữu-Ân mà ký-giả đã có nói rồi trước kia vậy). Hai chị em liền bước tới chào bái cả hai bà, rồi mới tỏ ý mình. Bà ni-cô cũng chắp tay đáp lễ, rồi hối người dắc hai chị em vào nơi chánh Điện, đốt nhan lên đèn, gióng trống đánh chuông, hai chị em bèn ra quì lạy nơi giữa Điện, thầm thỉ vái van, rồi lấy ống thẻ xăm đưa ngay lên tráng, lúc lắc một hồi, thấy có hai cây xăm nhảy ra một lược. Hai chị em liền đứng dậy lạy Bà, rồi vói lượm hết cả hai cây xăm cầm lên mà coi, thấy một cây Thượng-thượng, số 92; còn cây kia là cây Trung-bình, số 84. Rồi đó, hai chị em lại đề huề dắc nhau trở ra thính-đường, hỏi mượn quyển sách bàn xăm dở ra mà đoán. Thấy trong lá xăm số 84 là lá xăm Trung-bình, có bốn câu nơi bài giải như vầy:
Tìm thân mà chẳng gặp,
Lại gặp chỗ người dưng:
Một năm dài đăng đẳng,
Cha con mới đặng gần.
Đó là cái đại ý trong lá xăm ấy giải rằng: Muốn đi tìm cha mẹ, nhưng mà không gặp cha mẹ, lại gặp người dưng. Trong một năm nữa cha con mới gặp nhau.
Còn lá xăm Thượng-thượng, số 92 lại có bốn câu như vầy:
Việc không cầu lại được,
Đều chẳng ước mà xong;
Có quí-nhân phò hộ,
Gặp may-mắn lạ lùng.
Theo lá xăm nầy thì tốt lắm. Cứ theo đó mà đoán ra thì hai chị em sẽ gặp được cái hạnh-phước thình lình. Cái việc mình không vọng cầu mơ ước mà tự nhiên lại được, lại nên, lại nhờ có quí-nhân cứu vớt giúp đở nữa.
Hai chị em coi rồi trong lòng bán tin bán nghi, bàn tới bàn lui, nghĩ vơ nghĩ vẫn; nghĩ tới cái câu: Tìm thân mà chẳng gặp, thì buồn quá đổi buồn. Chừng nào gặp đều hạnh-phước đâu chưa biết, chớ hiện bây giờ đây, lấy theo cái câu xăm nầy thì quyết nhiên chưa gặp được mẹ cha, nghĩ tới đó vùng sa nước mắt. Bà Phủ thấy vậy cũng động lòng, bèn kêu hai chị em mà hỏi thăm duyên cớ. Thu-Cúc thấy bà tư-cách đàng hoàng, thì biết bà là người trong nhà trâm-anh phiệt-duyệt. Bèn đem hết trước sau lai lịch của mình mà thuật rõ lại cho bà nghe, nói tới mấy chỗ gian truân thì lại động lòng mà rưng rưng nước mắt. Bà Phủ nghe rõ đầu đuôi, cũng phủi động lòng vàng mà ngậm ngùi cho người trong cơn hoạn nạn; bèn nhắm nhía Thu-Cúc với Xuân-Lan, thấy hai chị em nàng tuổi tuy còn nhỏ mà phẩm hạnh đoan trang, cho nên bà cũng khen thầm rằng: « Thật chẳng uổng sanh nơi nhà thi-lễ. » Rồi đó bà cứ đứng vuốt ve cả hai chị em mà trầm trồ khen mãi. Một chặp lâu rồi bà mới nói với hai chị em nàng rằng: « Nè, hai cháu, qua thấy hai cháu tuổi còn thơ ấu mà lại gặp cái khổ cảnh như vầy, thật qua thương lắm; tưởng là ai kìa, chớ như quan Huyện là ông thân của hai cháu đây, qua tuy chưa biết mặt, chớ qua vẫn có nghe cái đại danh của người vẫn cũng đã lâu; lúc ông Phủ của qua ở nhà còn sanh tiền, mỗi khi ổng bình luận mấy ông danh-sĩ Nam-kỳ, thì ổng vẫn thường nhắc nhở cái quí danh của ông thân cháu luôn, cho nên qua cũng là kính phục. Nay mà hai ông bà mắc đi tị nạn phương xa, còn hai cháu đây là phận gái thơ ngây, dễ gì mà đi tìm cho được. Nay qua có một lời muốn nói cùng hai cháu, chẳng hay hai cháu có sẵn lòng mà nghe qua nói hay chăng? » Thu-Cúc liền đáp rằng: « Bẩm bà, vã bà là người tuổi tác, cũng như cô bác mẹ cha, còn chị em tôi đây là phận cháu con, như bà muốn nói đều chi, nếu phải thì chị em tôi vâng, bằng có đều chi mà chẳng vừa lòng thì tôi xin bà dạy lại, chớ có hệ chi mà bà phòng ngại. » Bà Phủ mỉn cười mà nói rằng: « Nè hai cháu, từ ngày ông Phủ nhà qua mất lộc đến nay, bỏ qua lại bơ vơ, con cái gì cũng không có, trước sau quạnh quẻ có một mình qua, thật qua buồn quá. Còn hai cháu đây vẫn là con nhà hàn mặc thơ hương mà lại gặp hồi lưu ly điên bái, mẹ cha lưu lạc, cui cút bơ vơ; thật qua không nỡ để cho con gái nhà tử tế mà phải gian truân tất tưởi như vầy thì cũng là tội nghiệp, nên qua muốn đem hai cháu về nhà gá nghĩa minh-linh[8] mà hủ hỉ với qua cho có bạn; còn thằng em trai của hai cháu mà cháu nói rằng cháu còn gởi nó ở học tại An-giang đó, thì thỉnh thoản rồi cháu cũng phải viết thơ mà kêu nó về đây, qua cũng nuôi luôn giùm cả ba chị em mà làm nghĩa, rồi qua sẽ đem nó xuống Saigon đóng bạc gởi nó vào trường mà cho nó học. Bao giờ mà cháu nghe được tin tức hai ông bà quan Huyện là song thân của cháu ở đâu, thì chừng ấy sẽ hay. Chẳng biết ý cháu thể nào, có vui lòng hay không thì nói, không ngại chi. » Thu-Cúc nghe lời bà nói rất có nhơn, liền tỏ ý cảm tạ ơn bà và thưa rằng: « Bà có lòng thương tưởng, thật tôi rất đội ơn, vậy xin bà để cho tôi bàn tính với em tôi trong một vài phút đồng-hồ, rồi tôi sẽ trở vô mà bẩm lại cho bà rõ. » Rồi đó Thu-Cúc liền bước ra kêu em mà hỏi rằng: « Bà Phủ nói như vậy, ý em tính sao? » Xuân-Lan đáp rằng: « Nếu được như vậy thì em tưởng chị em mình đây cũng là có phước lắm đa chị à! Vã bà là nhà sang trọng, lại thêm tánh hạnh rất từ hòa, trong nhà bà lại chẳng có con cháu chi, nếu nay mà bà muốn nuôi chị em mình làm con; mà cái tâm tánh và cái cử chỉ của chị em mình đây chắc là ở lâu chừng nào thì bà lại càng thương lắm. Vã lại lúc nầy chị em mình đương cơn khuẩn bức túng cùng, thì có tài nào mà nuôi em ăn học cho được; thế tất nó phải hư. Mà nay bà lại còn hứa xuất tiền nuôi nó ăn học, thế thì em Trọng-Liêm mình biết bao là hạnh phước. Huống chi chị em mình là phận đào-tơ liểu-yếu, rất đổi là ở trong nhà, lại là xứ sở của mình, mà hãy còn bị những quân lang-tử giả-tâm nó khuấy nhiểu thay. Phương chi là nay đi chỗ nầy, mai ở chỗ kia, trôi nổi bình bồng, lưu linh đất khách. Vậy thì chị em mình cũng nên cáo lỗi cùng trời đất và mẹ cha, đặng vào chịu ở làm con bà nầy cho yên phận mà chờ tin cha mẹ; chị nghĩ lại coi, có phải vậy chăng? » Thu-Cúc nghe lời em nói có lý, song cũng còn tấn thối lưởng nan, cứ ngồi làm thinh nhìn sửng Xuân-Lan mà suy nghĩ trong lòng hoài, chớ chưa kịp mở miệng. Xuân-Lan lại vỗ vai Thu-Cúc mà nói tiếp thêm rằng: « À chị! Mà em còn quên đây nữa chớ! Bây giờ em mới nghĩ lại cái lời Bà dạy trong lá xăm số 92 đó, thật là linh quá đa chị à.... » Và nói và lấy lá xăm trao ra cho Thu-Cúc xem, rồi lại chỉ từ câu mà nói rằng: « Đây nầy: Việc không cầu lại được. Đều chẳng ước mà xong. Đó, chị nghĩ lại mà coi, tự thuở đến giờ, chị em mình có cầu có ước cho ai đem chị em mình về mà nuôi làm con bao giờ? Mà nay tình cờ lại gặp bà Phủ nầy thương chị em mình mà tính như vậy thật cũng là kỳ! Ấy có phải là: Việc không cầu lại được; Đều chẳng ước mà xong đó chăng? Trong ấy lại có câu: Có quí-nhơn phò hộ: Gặp may-mắn lạ lùng. Đó, chị nghĩ lại cái câu nầy cho chính mà coi, quí-nhơn là ai? Chắc là bà Phủ nầy đây rồi chớ ai? Mà quả thật như vậy rồi đa chị à! Ấy có phải là lòng trời đã định, mà thánh-thần mách bảo cho mình biết đây chăng chị. Thôi, chị em ta cũng chẳng còn dụ dự làm chi, hãy về mà ở với bà cho an phận; nếu bà quả thật là người đạo đức từ hòa, thì cái ơn đùm bọc của bà đây, chị em mình cũng nên kết cỏ ngậm vòng, tôn bà làm mẹ, sớm trưa hủ hỉ với bà và xem sóc việc nhà cùng là thần tỉnh mộ khan trong khi bà ương yếu; kẻo để một người hiền đức như bà vậy, mà không có con cái chi, trước sau hiêu quạnh một mình, thật cũng là tội nghiệp. » Thu-Cúc nghe Xuân-Lan nói rót một hồi; câu nào cũng có lý, lời nào cũng chẳng sai, bèn vỗ vai em mỉn cười mà nói bởn rằng: « Thật cái miệng em nói xuôi như nước chảy; ấy rõ ràng là nữ Tùy-Hà[9] đó. » Xuân-Lan cũng cười xòa. Rồi đó hai chị em bèn dắc nhau vào lạy bà Phủ mà kêu bằng mẹ. (Nguyên bà Phủ nầy thuở nay không có con cái chi hết, nay tình cờ mà được một cặp con gái rất mỷ miều, rất quí đẹp như vầy, lại thêm phẩm hạnh đoan trang, nói năn thanh nhã; thì bà mừng rở biết là dường nào!)
Thật là: Đều đâu may mắn biết bao!
Mừng nầy còn có mừng nào cho hơn?
Rồi đó bà liền từ giã ni-cô, dắc hai chị em Thu-Cúc đi xuống núi, lên xe ra về.
Về tới nhà vừa đúng buổi cơm chiều, bà liền hối kẻ dọn cơm, rồi kêu hai chị em ngồi lại ăn chung với bà; thật là bà mừng quá. Bà ngồi và ăn và nhắm nhía mãi hai cô, gắp món nầy bỏ vào chén cho cô nầy, gắp món nọ bỏ vào chén cho cô kia, ân cần ép uổng; coi ra ý bà thật là thương yêu tưng tiêu lắm vậy. Bà lại gởi thơ xuống Saigon mà hỏi thăm tin Phan, Nguyễn hai ông, thử coi còn ở tại Saigon hay là đã đi ra Bắc. Cách chẳng mấy ngày mà bà đã được tin hồi âm cho bà hay rằng: Hai ông đã tháp tùng chiết tàu Paul Lecat mà ra Bắc đã bốn ngày, tưởng khi nay cũng đã tới Hải-phòng rồi. Vì vậy cho nên hai chị em Thu-Cúc mới an lòng, đành ở đó mà làm con bà Phủ.
Từ ngày hai chị em Thu-Cúc với Xuân-Lan vào ở làm con bà Phủ rồi thì việc nhà của bà bất câu lớn nhỏ, tự trong tới ngoài, tự gần tới xa, đều nhờ có hai chị em ân cần xem sóc. Mà cũng chẳng lạ gì, hễ thinh khí tương cầu, thì thế tất phải tâm đầu ý hiệp; bỡi đó cho nên, mẹ con mà gần gủi nhau chừng nào thì lại càng tin cậy mến yêu nhau chừng nấy. Thậm chí, chìa khóa tủ sắt của bà mà bà cũng phú thát cho hai chị em giữ gìn thâu xuất, bà chẳng hề nghi ngờ một mảy. Tuy vậy mà, phàm những công việc nào khác thì hai chị em cũng còn chưa lấy chi làm quan tâm cho lắm, chớ hễ động tới việc bạc tiền, thì hai chị em lại đáu đáu nơi lòng, cần cần nơi chí, nắm nắm nớp nớp, kiên sợ răn dè, thâu xuất rất phân minh, không hề dám để cho sót sai một ly một mảy. Vì vậy mà bà Phủ lại càng thương yêu tin cậy hơn nữa, thật con ruột tưởng cũng không bằng, lần lần mà cái nghĩa minh-linh lại hóa ra tình cốt-nhục.
Lần hồi ngày lụn tháng qua, thắm thoát mà đã gần năm tháng. Ngày nọ nhằm lúc cúng vía Bà trên núi Điện, bà Phủ cũng nhơn dắc hai cô con lên Điện mà dâng hương; tình cờ lại gặp Hoàng-hữu-Chí. Bà thấy chàng diện mạo khôi ngô, nói năng phong nhã, nên bà cũng đem lòng yêu mến kính vì, ý bà muốn định đôi cho một người trong hai cô con của bà, nên bà mới mời chàng về nhà đặng có làm quen và hỏi thăm lại căn do lý lịch của chàng cho rõ.
Đây nhắc lại Hoàng-hữu-Chí, khi hứa với bà Phủ rồi thì chẳng dám nuốt lời, cho nên qua bữa sau lối ba giờ chiều thì chàng ta đã hỏi thăm mà tìm tới nhà bà Phủ.
Còn bà Phủ khi thấy Hoàng-hữu-Chí tới nhà thì mừng lắm, chào hỏi lăng xăng, lại hối trẻ pha trà bưng ra thết đãi. Lúc ấy Hoàng-hữu-Chí miệng thì uống trà mà con mắt thì liếc xem tứ phía; thấy nhà bà tuy là đờn bà góa mặt dầu, mà ở ăn sạch sẽ, trong nhà sắp đặt nghi tiết chỉnh tề, mỗi mỗi đều có qui củ chuẩn thằng, rất nên đúng đắn. Còn đang nứt nở khen thầm, bỗng nghe bà Phủ và cười và nói rằng: « Từ hôm qua cho tới bữa nay tôi e thầy hứa lơ là, rồi hoặc có việc gì nó ngăn trở mà thầy đến không được chăng. Không dè mà thầy giữ được lời hứa, nên tôi cũng khá khen cho thầy lắm đó. » Hoàng-hữu-Chí đáp rằng: « Bẩm bà, hễ là làm người mà muốn lập cái thân danh với xã-hội, thì phải lo trau dồi tín nghĩa mà làm đầu, nay cháu vừa mới bước chơn vào đường đời thì những lời cháu hứa cùng ai, cháu đâu dám để cho thất tín. » Bà Phủ lại nói rằng: « Hôm tôi gặp thầy trên Điện, vì có người ta đông đảo, nên tôi chưa kịp hỏi thăm; chẳng hay thầy, cha mẹ song toàn và đã có nơi nào kết tóc hay chưa, thầy cứ nói thật cùng tôi, xin đừng dấu diếm. » Hoàng-hữu-Chí thưa rằng: « Cha mẹ cháu bất hạnh, mất hồi thuở cháu còn thơ, cháu nhờ có một người chị, bán buôn nuôi cháu ăn học mà thôi. Vã lại cháu học tất-nghiệp vừa mới có mấy tháng nay, nên cháu chưa kịp lo đôi bạn. » Bà Phủ nghe lời chàng nói thật thà, thì lại càng thương hơn nữa, bèn nói rằng: « Tôi xin lỗi cùng thầy, vì tôi thấy thầy côi cút mà có chí học hành, lập nên danh phận như vậy nên tôi cũng thương; vậy từ đây tôi đãi thầy cũng như con cháu nhà nầy, bất câu là ngày nào, hễ thầy có rảnh thì cứ tới lui mà chơi chớ ngại; thỉnh thoản tôi coi có chỗ nào xứng đáng, tôi sẽ mách miệng giùm cho, chớ thầy còn nhỏ tuổi, lại ở nơi xứ lạ quê người, sớm khuya tròi trọi có một mình, trong khi ương yếu biết lấy ai săn sóc thuốc men, thật cũng là tội nghiệp. » (Nguyên bà Phủ mà mời Hoàng-hữu-Chí tới nhà đây là bà có ý muốn gả con, song bà còn để nói xa nói gần, chớ chưa nói quyết; một là vì bà chưa rõ lai lịch của chàng, hai là bà cũng chưa rõ ý hai cô con, nên để chờ hỏi lại). Còn Hoàng-hữu-Chí khi nghe bà nói vậy thì tạ ơn, rồi đứng dậy từ giã ra về; đi dọc đường suy nghĩ một mình rằng: « Bà Phủ đã mở hơi như thế, thì ắt cũng có duyên cớ chi đây, hoặc là bà muốn gả con bà cho ta đây chăng? » (Cực kỳ thông minh). Nhưng mà không! Ta chẳng hề chịu bao giờ! Vã bà là nhà giàu sang, thì hai cô con gái của bà, chi cho khỏi tập lấy tánh kiêu. Còn ta đây bất quá hồ là một đứa sĩ cùng, nếu cưới vợ giàu sang đem về, thì ắt cô ỷ tiền ỷ của mà kiêu căng khi dể nhà chồng. Hễ vợ mà kiêu căng khi lờn chồng, thì ối thôi, cái gia-đình ấy còn chi mà kể. Đã vậy mà thiên hạ họ còn dị nghị, họ cho mình là bọn tham tiền, đã vọc nhã cái bàn toán rồi mới đi cưới vợ. Ôi! Hẵn thật ta không thế nào mà cưới con bà Phủ được. Thôi, ta cũng để mà coi, chớ chưa biết làm sao mà định trước. »
Đây nhắc lại bà Phủ, nội đêm ấy bà kêu Thu-Cúc mà nói rằng: « Má thấy con nay đã trộng rồi, lẽ phải định bề đôi lứa cho kịp tiết kịp thời; nay má thấy thầy giáo nầy học hành đã khá mà tánh hạnh cũng dễ thương, nên má muốn định gả con cho thẩy, nhưng định thì định vậy, song cũng còn phải chờ nghe tin tức anh chị ở đâu mà cho hay đã rồi sẽ tính, chẳng hay ý con thể nào, con cứ nói ngay cho má liệu. » Thu-Cúc nghe nói vùng sa nước mắt, rồi thưa rằng: « Việc vợ chồng là đạo nhân-luân, cho nên phận làm cha mẹ mà có con, bất luận là trai hay gái, hễ lớn lên thì phải lo bề nghi-thất nghi-gia, ấy là lẽ tự nhiên của trời đất; gia dĩ cái ơn tri ngộ của má đây thật rất cao dày, nói cho cùng mà nghe, dầu má có dạy con chết đi nữa, thì con cũng chẳng dám từ, huống chi là việc hôn-nhơn; ngặt vì lúc con còn bé, cha con đã hứa hôn, định gả con cho Phan-quốc-Chấn, lúc cha con gần để bước lên đường, thì người vẫn cũng đinh ninh dặn dò con việc ấy. Hiện nay chàng còn đương ở học bên Tây, còn một năm nữa mới là tất-nghiệp; rất rủi cho ông thân của chàng vì bị hỏa tai mà sự nghiệp phải tiêu điều; nay người đã hiệp với cha con mà đi ra Bắc, không hiểu hai ông đi đây là tính xoay về cái chủ-nghĩa nào, mà cũng chưa biết cái nẻo tương lai của hai ông sau nầy có kết quả được những gì hay không. Còn chàng Quốc-Chấn thì còn đương ở bên Tây, nếu tiền bạc đã hết đi rồi mà không người châu cấp thì ắt là chàng phải phế học; mà con lại còn lo cho chàng hụt tiền phí lộ mà trở về, thì lại càng thêm khổ. Chớ như phận em con đây, vì nó tuổi còn thơ ấu, nên cha con chưa hứa với ai; nếu nay mà má có đành lòng thầy Hoàng-hữu-Chí thì má tính cho nó cũng xong, hễ má đã đành rồi thì chị em con lẽ đâu dám cải. » Bà nghe lời nàng nói thì bà cũng ngậm ngùi, bèn nói rằng: « Có vậy sao xưa rày con kín miệng, không nói ra cho má tính cho, để cứ ôm ấp trong lòng thì má biết ngứa đâu mà gải. » Thu-Cúc liền thưa rằng: « Bỡi con nghĩ vì nhà con đương lúc điên nguy, mẹ cha xiêu lạc, con cái bình bồng, may nhờ má có dạ nhân từ, đam về hoạn dưỡng, mặc ấm ăn no thì đà quá phận; vậy thì con còn dám vọng cầu những đều chi khác nữa mà làm cho má buồn lòng hay sao. » Bà Phủ nghe lời Thu-Cúc nói rất ngọt ngào, thì bà lại càng thương yêu hơn nữa.
Thật là: Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ thương.
Bà Phủ bèn nói rằng: « Thôi, con chớ ngại chi, vì má có nghe rằng: Quân-tử năng thành nhân chi mỷ. Hễ làm người thì phải giúp nhau cho nên việc mới là. Huống chi nay chúng ta sanh nhằm cái thời đại bán khai, thì cái tiền-đồ của quốc-dân ta sau nầy đều trông mong nơi đám thanh-niên, cho nên hễ giúp được một người học-sanh nào cho học nghiệp được hoàn toàn, thì cũng còn hơn lập một cảnh chùa chín nóc đa con. Rất đổi là người ngoài mà còn phải lấy lòng bác ái để giúp cho nhau thay! Huống chi Phan-quốc-Chấn, sau nầy nó sẽ là chồng của con, thì tức nhiên nó cũng sẽ là rể hiền của má vậy chớ; nếu không lo cho nó, chớ lo cho ai bây giờ. Thôi, để sáng mai hai mẹ con mình đi lại nhà dây-thép mua măn-đa (mandat) mà gởi cho nó một ngàn đồng, để giúp nó học thêm cho tới kỳ tất-nghiệp. Vậy mà con có biết chỗ nó ở học chắc chắn hay không con? » Thu-Cúc nói: « Dạ, thưa có, vì cha con có biên để lại cho con. » Bà Phủ nói: « Ừ, được đa, vậy thì tốt lắm. »
Đêm ấy bà biểu Thu-Cúc viết thơ sẵn cho bà ký tên. Sáng ra bữa sau ba mẹ con thức dậy rồi bà bèn kêu thằng ở đánh xe, hối nó thắng xe, lại biểu Thu-Cúc mở tủ lấy ra một ngàn đồng bạc, để Xuân-Lan ở lại coi nhà; bà với Thu-Cúc lên xe đi lại nhà dây-thép mua một cái măn-đa mười hai ngàn quan tiền tây (bạc lúc ấy mỗi đồng là mười hai quan tiền tây, nhằm một ngàn đồng bạc chẵn), rồi để vào bao niêm phong tử tế, lại có gắn keo, gởi rờ-com-măn-đê (recommander) cho Monsieur Phan-quốc-Chấn, học-sanh trường Thương-nghiệp cao-đẳng tại Paris bên Pháp-quốc.
Đây nói qua việc Phan-quốc-Chấn ở học bên Tây, từ ngày tiếp được tin nhà rủi ro như vậy thì đêm ngày lo sợ phập phồng; nỗi lo cho cha mình già yếu mà gặp cơn nguy biến thế nầy, không biết người có vì sự ưu sầu mà phải sanh đau ốm gì chăng; nỗi lo cho mình học mới nửa chừng, nay lại rủi gặp lúc vận nhà điên đảo như vầy thì biết lấy chi mà học thêm cho tới ngày thành đạt. Còn đang suy nghĩ lo tới tính lui, bỗng thấy phắt-tơ (facteur)[10] đem lại một phong thơ rờ-com-măn-đê và một cuốn cạt-nê (carnét)[11] biểu ký tên mà lãnh. Phan-quốc-Chấn ký tên lãnh lấy phong thơ rồi trong lòng hồi hộp, chưa biết dữ lành, mà cũng không biết của ai, liền mở ra coi, thấy có một tờ măn-đa mười hai ngàn quan, nhìn tuồng chữ viết thơ thì lạ hoắc, nhìn mãi mà nhìn cũng không ra; chàng ta nóng nảy, muốn gắp biết người nào gởi bạc cho mình, nên không kịp đọc cho hết bức thơ, lại lật ra phía sau đặng coi tuồng chữ ký tên của ai cho biết. Ai ngờ thấy đề như vầy: Madame veuve Phủ Ân, Propriétaire à Tây-ninh. Té ra cũng là lạ hoắc.
Phan-quốc-Chấn ngạt nhiên, không biết bà Phủ Ân nào đây, sao lại gởi tiền cho mình nhiều lắm vậy. Liền lật trở qua phía trước, đọc cho hết đầu đuôi, đặng cho rõ duyên do kẻo ức. Chừng đọc hết bức thơ, mới hay quan Huyện cũng vì sự tai biến của cha mình mà phải liên lụy, bị tịch hết gia sản, ông rầu bỏ đi, làm cho hai chị em Thu-Cúc vì đi tìm cha mà phải trôi nổi lên tới Tây-ninh, may gặp bà Phủ nầy là người háo nghĩa, đem về nuôi hết làm con, thương yêu như con ruột; nàng nhơn tỏ hết gia-tình cho bà nghe, nên bà lại lấy lòng hào hiệp, chẳng tiếc bạc ngàn, gởi giúp học-phí cho mình đặng học thêm cho tới ngày thành đạt. Sau rốt bà lại đinh ninh dặn dò, bảo phải rán học cho đến kỳ tất-nghiệp sẽ về; thoản như có thốn thiếu bạc tiền, chỉ cứ gởi thơ cho bà hay, thì bà cũng sẵn lòng gởi thêm cho mà ăn học. Bà lại cho hay rằng cha mình và quan Huyện đã cùng nhau đi ra Bắc; song chưa hiểu hai ông ra Bắc làm gì.
Phía dưới chỗ bà Phủ ký tên lại có mấy hàng chữ nhỏ gạnh thêm như vầy:
« Hai nhà tai nạn, nay đã hầu qua, một tấc dạ nầy, đất trời soi xét; xin hãy gia tâm, giồi mài kinh sử, cho khỏi phụ tấm lòng háo nghĩa của người.
« Đôi hàng trân trọng, xin chớ phụ lời. Chí chúc! Chí chúc!
Phan-quốc-Chấn xem rõ đầu đuôi, trong dạ ngùi ngùi, suy tới nghĩ lui, tâm thần tán loạn; nỗi lo cho hai ông lão đi ra đất Bắc là nơi xứ lạ quê người, khi mưa nắng biết lấy ai mà nương cậy; nỗi cám ơn bà Phủ, tấm lòng rộng thinh thinh, dầu cho biển Thái-bình, cũng không bì kịp; nỗi cảm tình Thu-Cúc, một lời của mẹ cha đính ước, mà nàng tạc dạ khăng khăng, dầu phải bước truân chiên, cũng không dời chí. Lúc bấy giờ, Phan-quốc-Chấn ngồi dựa cạnh bàn, tay chống tráng, mắt nhìn thơ, một mình nghĩ vẫn nghĩ vơ, mối cảm hoài lai láng. Một chặp lâu chàng-ta mới nhứt định lấy giấy viết thơ gởi về cho bà Phủ, trước là cho bà hay rằng mình đã được bạc và thơ, sau nữa là để tỏ ý tạ ơn bà luôn thể. Chẳng dè khi đặt bút xuống mà viết được có một hàng là đề chỗ ở và ngày tháng:
Viết có bấy nhiêu đó rồi ngưng bút lại mà suy nghĩ mãi có một cái vấn-đề về cách xưng hô hơn trót một giờ mà chưa quyết định được, bây giờ đây mình gởi thơ cho bà mà phải kêu bà bằng má hay bằng bà? Suy đi nghĩ lại một hồi, rồi hỏi lại mình rằng: « Vậy phải kêu bà bằng chi bây giờ? Kêu bằng bà! Không được. Bà mà gởi bạc để giúp cho mình ăn học đây, là bà đã có ý đãi mình như tình con rể rồi đấy. Vậy phải kêu bằng má hay sao? Cũng không được! Một không hai không, ba bốn cũng không! Rất đổi quan Huyện là cha ruột của nàng Thu-Cúc kia mà mình còn chưa dám kêu bằng cha thay! Huống chi bà Phủ là mẹ nuôi của nàng mà mình lại dám kêu bà bằng má! Khó cha chả!! Phải liệu làm sao bây giờ?
Phan-quốc-Chấn lúc bấy giờ, hình như tượng gổ, cứ ngồi lặng thinh mà trầm tư mật tưởng mãi có một mình, như dại như ngây, lấy làm rối trí. Đến lúc chàng-ta đã cùng suy tột xét rồi mới nói rằng: « Nếu bây giờ mà mình kêu bà bằng má thì thật rất ngở ngàn, vì mình còn ở xa xuôi bên nầy, không biết được rõ bên ấy hai người đối đãi với nhau làm sao mà mình dám đánh bạo kêu bà bằng má, thành ra mình có ý phùng nghinh, bưng bợ bà vì cái số bạc mười hai ngàn quan của bà mới gởi qua cho mình đây chăng? Ôi! không phải vậy. Thật không phải vậy. Thế thì mình tính kêu bằng bà có khi phải hơn. Bao giờ bà có gởi thơ mà dạy lẽ nào nữa, thì chừng ấy ta sẽ tùy cơ ứng biến, cũng chẳng muộn gì. » Nghĩ như vậy rồi mới nhứt định kêu bà Phủ bằng bà thôi, liền viết thơ như vầy:
« Kính bà,
« Con mới vừa tiếp được một bức thơ rất quí trọng và một tờ măn-đa mười hai ngàn quan của bà đã có lòng tốt gởi qua để giúp con ăn học cho tới ngày thành đạt. Thật con rất đội ơn bà là một người nghĩa trọng như san, vừa hào-hiệp vừa nhân-từ, đã cứu người lạc nạn mà bảo tồn danh-giá cho mấy chị em Thu-Cúc tiểu-thơ, lại còn đam lòng trắc ẩn, đoái thương kẻ du học viển phương mà giúp đỡ con trong cơn khuẩn bức nơi xứ lạ quê người. Thật cái ơn trọng nầy ví tợ non sông, dầu cho phần cốt toái thân đi nữa, con cũng quyết kết cỏ ngậm vòng, chờ ngày đền đáp. Bà lại còn hứa rằng nếu ngày nào con còn thốn thiếu mà gởi thơ cho bà hay, thì bà cũng sẵn lòng gởi cho thêm nữa. Ôi! Thật là thiên cao địa hậu, muôn kiếp ghi xương. Nhưng con nghĩ vì nhà con thuở nay chưa hề có tới lui ơn nghĩa chi với nhà bà, nay bà vì quá thương cô Thu-Cúc mà ái ốc cập ô, gởi cho con một số bạc quá to, thì con đà quá vọng rồi; lẽ đâu con lại còn dám đèo bòng trông mong chi nữa mà làm rộn cho bà phải nhọc công tốn của nữa sao? Huống chi nay con học nghiệp cũng gần thành, tiền học-phí còn chừng năm ngàn quan là đủ, còn dư lại bảy ngàn, con sẽ tiện tặn mua sắm chút đỉnh sách vở cùng những vật cần dùng. Chỉ tồn lại bao nhiêu, con sẽ đem gởi cho nhà Băng, để dành làm lộ-phí nơi ngày con trở về cố quốc cũng đã đủ rồi. Vậy xin bà chớ có để ý cho con về sự tiền bạc nữa làm chi mà lao phiền quí-thể.
« Sau nữa con cũng xin bà đoái thương đứa sĩ cùng là một đứa con bất-tiếu Phan-quốc-Chấn nầy mà lưu tâm dọ giùm tin tức của hai ông lão nhà con, mạnh giỏi thể nào rồi cho con hay, thì con lại càng tạc dạ ghi xương, cám đội ơn bà vô cùng vô tận.— Luôn dịp con kính gởi một tấm tiện-ảnh của con đây, gọi là tỏ chút chơn-thành mà dâng cho bà để làm kỷ-niệm; cúi xin bà vui nạp cho con.
« Vắn tắc mấy lời thành thật, con kính chúc cho bà hai chữ vạn an.
Phía sau rốt bức thơ, chàng lại gạnh thêm mấy hàng mà ngỏ cùng Thu-Cúc như vầy:
« Mấy lời kim thạch, khắc cốt minh tâm,
Viết xong, đọc đi đọc lại đôi ba lần rồi mới niêm phong đem bỏ vào thùng thơ mà gởi về Nam-kỳ cho bà Phủ.
Cách chừng một tháng ngoài thì bà Phủ đã được thơ, bà mở ra xem hết đầu đuôi, thấy lời nói của chàng vừa trung hậu, vừa khôn ngoan, thì bà đà nứt nở khen thầm, đến khi bà xem tới tấm ảnh của chàng, hình dung tuấn tú, diện mạo khôi ngô, thì bà lại càng mừng lắm. Bà nhơn nghĩ rằng: « Nhà mình thì giàu sang, mà chồng lại bất hạnh mất sớm, con cháu cũng không ngơ, hôm sớm một mình, vào ra tròi trọi, nếu ngày nào mà ta nhắm mắt đi rồi thì sự nghiệp nầy thiên hạ họ chia phay; thế thì có phước cũng như vô phước. Ngồi mà nghĩ lại thật ta cũng buồn cười cho những người bỏn sẻn làm lụng cả ngày, tay lấm chơn bùn mà ăn chẳng dám ăn, mặc không dám mặc, năm chí cuối chỉ cứ khu khu làm mọi giữ của cho đời, đến khi tới số vô thường rồi, thì đi lại cũng nắm hai bàn tay không. Chí như ta đây, vì nhà không con cái, đã cam phận thiệt thòi; có dè đâu mà trời chẳng phụ người hiền, khiến cho ta gặp được hai đứa con, tuy là gá nghĩa minh-linh, nhưng mà sánh với kẻ khác, dầu cho con ruột cũng không bì kịp, cả hai đều tánh tình hiếu thuận, cử chỉ khoan hòa; thật là quan Huyện Nguyễn-trọng-Luân đã khéo sanh con mà cách dạy con cũng khéo. Nay hai chị em nó đã chịu tiếng làm con ta rồi, thì ta cũng nên chọn cho được một đôi giai-tế mà sánh với cặp nầy thì mới là thỏa mản. Mới đây ta gặp Hoàng-hữu-Chí thì ta đã chấm được một đứa rể hiền rồi, nay ta thấy thơ và hình của Phan-quốc-Chấn đây nữa thì cũng là xứng đáng; thật rõ ràng là một nhà con thảo rể hiền, song song hai cặp giai-nhân tài-tử. Nếu ngày nào mà đôi lứa ấy được thành, thì vợ chồng quan Huyện biết bao là toại chí; mà rồi ta đây cũng có người ỷ lại về sau, vì ta tuy không sanh mà có dưỡng, sanh dưỡng cũng đạo đồng; huống chi ta đã chẳng tiếc bạc ngàn mà tác thành cho bốn trẻ, thì có lý nào mà ngày sau chúng nó lại chẳng nghĩ ta, mai sau dầu bóng xế nhành dâu, ắt có kẻ quạt nồng đấp lạnh; thế thì từ đây ta đã khỏi lo đều tịch mịch rồi. »
Bà Phủ thì trong lòng thầm tính như vậy, còn Hoàng-hữu-Chí thì lại khác, vì chàng-ta thấy nhà bà giàu sang, sợ e nếu cưới con bà thì chi cho khỏi cô ấy ỷ của mà khinh thị mình, nên nhứt định không chịu cưới con nhà giàu-có.
Bữa kia, nhằm ngày chúa-nhựt, Hoàng-hữu-Chí đang ngồi trong nhà, xãy có một thầy thông-ngôn dây thép bước vào hai đàng bắt tay chào hỏi rồi mới ngồi lại chuyện vản với nhau. (Nguyên thầy thông nầy tên là Lê-xuân-Kỳ vẫn có quen với Hoàng-hữu-Chí).
Hoàng-hữu-Chí hỏi: « Hôm nay thầy đến đây mà chơi, hay là có việc chi chăng? »
Lê-xuân-Kỳ nói: Bữa nay nhơn rảnh tôi đi dạo chơi, tiện đường nên ghé thăm thầy và cũng có ý muốn hỏi thăm thầy một chuyện.
Hoàng. — Chuyện chi vậy?
Lê. — Tôi đổi lại đây đã hơn năm sáu năm rồi, tôi vẫn biết nhà bà Phủ Ân lắm, hồi tôi mới lại thì ông Phủ vẫn còn, tôi không thấy hai ông bà có con cái chi hết. Mà sao cách mấy tháng nay lại có hai cô thiếu-nữ nào đó, xinh đẹp vô cùng, đến ở trong nhà bà, mà lại kêu bà bằng má; thật cũng là kỳ!
Hoàng. — Đều ấy cũng chẳng lạ gì, vì tôi nghe hai cô ấy đều có học-thức cả, hoặc lúc thầy mới đổi lại thì hai cô ấy còn mắc ở học trong Nữ-học-đường Saigon, nên thầy không biết chăng.
Lê. — Không mà! Tôi có hỏi thăm mấy người gốc gát nhau rún tại đây, thì họ cũng đều không biết và cũng lấy làm lạ như tôi vậy hết nữa mà!!
Hoàng. — Uả! Sao thầy không hỏi họ lại cho kỷ thữ coi?
Lê. — Có chớ! Mà không ai hiểu hết, nên tôi mới lấy làm lạ chớ!! Lại mới hôm tháng trước đây, bà đi với một cô trong hai cô ấy đến nhà dây-thép mua một cái măn-đa tới mười hai ngàn quan mà gởi qua bên tây cho một cậu học-sanh nào đó tên là Phan-quốc-Chấn. Tôi có dọ kỷ thì cậu học-sanh ấy cũng không phải là con cháu chi của bà, thật là người dưng đặt sệt, không hiểu vì sao mà bà lại gởi tiền mà cho nhiều quá vậy?
Hoàng-hữu-Chí nghe nói tới tên Phan-quốc-Chấn thì biết là bạn-hữu của mình, song chẳng muốn cho Lê-xuân-Kỳ biết rõ làm chi; mà cũng không hiểu duyên cớ làm sao mà bà Phủ Ân lại gởi tiền cho ảnh. Bèn ngồi lặn thinh mà suy nghĩ hoài. Lê-xuân-Kỳ thấy vậy phát nghi, liền hỏi rằng: Phan-quốc-Chấn nào đó, anh có biết chăng?
Hoàng. — Biết chớ! Phan-quốc-Chấn thì tôi biết, còn tại sao mà bà Phủ Ân lại gởi tiền mà cho thì tôi không rõ.
Lê. — Tôi thấy thầy tới lui nơi nhà bà Phủ cũng thường mà thầy không hiểu gì hết hay sao?
Hoàng. — Mình là người có học, mắc mảng có giữ cái lễ nghĩa, cho nên việc nhà của người ta không lẽ mình đi tọc mạch mà hỏi tới làm chi. Mà mình cũng chẳng phải là bọn dê rừng, hễ thấy sắc đẹp thì mê, mà cũng không phải là bọn tham tiền, thấy người giàu-có mà muốn cưới con gái của người đặng ăn của nên hòng hỏi thăm cho kỷ; vì vậy nên tôi không biết được gì hết.
Lê-xuân-Kỳ nghe Hoàng-hữu-Chí nói mấy lời thì có ý thẹn thầm, liền đứng dậy từ giã ra về; vừa đi vừa lầm bầm rằng: « Mình tưởng nó là anh em, nên hễ có chuyện gì lạ thì nói cho nó nghe, nó lại kiếm đều mà nói đâm hông mình, làm hơi người liêm-sĩ, nói rằng không ham cưới con gái nhà giàu. Thằng phách thiệt, mi để mi coi ta. » Từ đó mới sanh dạ oán thù Hoàng-hữu-Chí.
Nguyên Hoàng-hữu-Chí vẫn biết Lê-xuân-Kỳ là một tay tham tài háo sắc, kiến lợi vong nghĩa; cho nên bề ngoài tuy quen mà bề trong thì không thích. Khi thấy Lê-xuân-Kỳ về rồi thì cười thầm, rồi bỏ qua, không thèm để ý tới. Nhơn nghĩ lại một mình rằng: « Vã Phan-quốc-Chấn với ta là anh em bạn thiết, tâm đầu ý hiệp, thương yêu nhau, tin cậy nhau, lúc ảnh còn ở bên nầy thì ảnh thường chơi bời chuyện vãn với ta, bà con cô bác của ảnh những ai, ta đều biết hết, mà không hề nghe ảnh nói tới tên bà Phủ Ân nào ở Tây-ninh bao giờ! Sao bà Phủ lại biết ảnh mà gởi bạc tiền cho ảnh? Hoặc là bà có bà con gì với ảnh hay sao mới vậy chớ! Thôi, để bữa nào ta giả đến thăm bà, rồi ta sẽ lần hồi dò la thử coi cho biết. »
Một bữa kia, nhằm ngày thứ năm, Hoàng-hữu-Chí nhơn nghỉ dạy, bèn đến thăm bà Phủ, rồi hỏi thăm qua việc Phan-quốc-Chấn rằng: « Cháu xin vô lễ mà hỏi thăm bà một việc, chẳng hay Phan-quốc-Chấn là người bà con hay là con cháu chi của bà? » Bà Phủ nghe hỏi như vậy cũng lấy làm lạ bèn hỏi lại rằng: Uả! Sao thầy biết Phan-quốc-Chấn?
Hoàng. — Dạ, bẩm bà, Phan-quốc-Chấn là anh em bạn thiết của cháu.
Bà Phủ. — Vậy sao? Cơ khổ dữ chưa! Vậy mà xưa này tôi có dè đâu. Thầy quen với nó hồi nào, đã lâu rồi hay mới?
Hoàng. — Bẩm bà, cháu với ảnh là bạn học với nhau từ hồi thuở nhỏ, thường tới lui chơi bời thân cận với nhau lắm; mới cách nhau là từ ngày ảnh đi du học bên Tây đây mà thôi. Còn ảnh là người chi của bà, xin bà cho cháu biết với.
Bà Phủ bèn đam hết các việc từ ngày mới gặp hai chị em Thu-Cúc cho đến khi gởi bạc qua bên Tây mà cho Phan-quốc-Chấn, đầu đuôi thuật rõ lại hết cho Hoàng-hữu-Chí nghe. Chừng ấy Hoàng-hữu-Chí mới biết hai chị em Thu-Cúc vẫn là con của một ông quan hưu-trí rất có thanh danh, và Thu-Cúc lại có hứa hôn với Phan-quốc-Chấn là bạn-hữu của mình; rủi vì hai nhà ngộ nạn, nên nỗi phiêu lưu, may gặp bà Phủ đem về nuôi mà làm con, đãi như con ruột, bà lại còn châu toàn cho đến Phan-quốc-Chấn đương ăn học bên Tây. Đến đây Hoàng-hữu-Chí mới biết bà Phủ là người nhân hậu, thế thượng vô song, thật rõ ràng là nữ trung quân-tử.
Từ đó chàng ta mới hết lòng kính phục bà và thường lân la tới lui thăm viếng; mà hễ Hoàng-hữu-Chí càng biết bà Phủ chừng nào thì càng kính, càng vì, càng khen, càng sợ.
Nhắc lại Lê-xuân-Kỳ, nhơn thấy bà Phủ đã giàu sang mà chẳng có con trai, duy có hai người con gái mà thôi, nếu cưới được con bà thì ngày sau ắt sẽ nhờ được. Bợm ta tính tới tính lui, (nhơn, chia, trừ, cọng gì đủ hết;) tính nát trong ruột rồi mới cậy mai đến nói.
Chẳng dè bà Phủ, nhơn vì Thu-Cúc đã có nơi rồi, còn Xuân-Lan thì bà lại nhứt định để gả cho Hoàng-hữu-Chí, nên bà kiếm chuyện mà từ rằng con bà còn nhỏ dại, bà chưa chịu gả cho ai, để bà dạy thêm nữ công nữ hạnh một đôi năm nữa rồi bà mới gả. Lê-xuân-Kỷ cậy mai đến nói đã đôi ba phen mà bà cũng khăn khắn một lời trước sau như một. Bợm ta tức giận vô cùng, phần thì thấy Hoàng-hữu-Chí thường hay lai vãng nhà bà, bèn sanh lòng đố kị, quyết toan mưu ám hại cho được mà rửa hờn. Nhưng bề trong thì vẫn cứ hầm hầm, còn bề ngoài thì lại làm màu tử tế; mỗi khi gặp Hoàng-hữu-Chí bất luận chỗ nào, bợm-ta cũng làm bộ chào hỏi vui cười, chuyện trò niềm nở lắm.
Thiệt là: Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Nguyên Lê-xuân-Kỳ trước đã có tư tình với một nàng kia tên là Cẩm-Lệ, nàng ấy nhân-phẩm tầm thường, không phải xấu, mà cũng không đẹp lắm. Cha mẹ nàng mất sớm, có để lại cho nàng một cái nhà ngói ba gian và đôi ba chục mẫu ruộng; vì không ai câu thúc, cho nên nàng mới được tự do, Lê-xuân-Kỳ tới tới lui lui, giờ nào cũng được.
Đêm kia, Lê-xuân-Kỳ đến thăm Cẩm-Lệ mà mặt còn hơi giận lộ ra bề ngoài. Cẩm-Lệ lấy làm lạ bèn hỏi rằng: « Một lần thầy tới đây thì mặt mày vui vẽ luôn, hôm nay trong thế thầy có bất bình với ai việc gì hay sao mà coi ý thầy còn hơi giận dữ lắm vậy? » (Ấy là Lê-xuân-Kỳ muốn lợi dụng Cẩm-Lệ cho đắc kế của mình, nên mới làm bộ giận dữ cho Cẩm-Lệ hỏi mà nói. Mà quả thật Cẩm-Lệ trúng kế, nên mới hỏi bợm-ta như vậy).
Lê-xuân-Kỳ bèn dùng dịp ấy, bày đều nói láo mà khích Cẩm-Lệ rằng: « Bấy lâu nay tôi tưởng nó là người tử tế, nên mới kết bạn với nó mà chơi, có dè đâu mà nó là một đứa tiểu-nhân, kiêu căng xất xược, nói phách chẳng ai bằng; nó thấy tôi tới lui với cô thì nó làm hơi mặt quân-tử mà ngăn cảng tôi hoài, nó chê tôi dại, lấy cô mà ăn những vật gì, nó lại nhiếc cô là gái mất nết, gái chạ, gái hư; thật là nó nhiếc rất quá lời, nó lại còn nói phách rằng chừng nó có cưới vợ thì nó sẽ lựa chỗ cho xinh đẹp như tiên, lại giàu sang cho tột bực thì nó mới cưới; chớ gái mà lục lục như cô vậy, dầu có đam tới lạy nó mà cho không, nó cũng chẳng thèm. Tôi giận quá, nên tôi gây với nó một hồi, rồi tôi mới bỏ mà lại đây. » Cẩm-Lệ nghe nói xúc tâm, nổi giận phừng phừng, liền hỏi Xuân-Kỳ rằng: « Thầy nói thằng nào đó, thằng nào mà nói phách lắm vậy? » Lê-xuân-Kỳ nói: « Thì có ai, có một mình thằng giáo Chí đó chớ ai. » Cẩm-Lệ chưởi mắng bông lông một hồi rồi nói rằng: « Thôi, thầy ở đây coi giùm nhà cho tôi, để tôi lại nhà giáo Chí, đặng mắng nó ba đều chơi cho nó biết mặt. » Và nói và lấy áo dài mặc vào rồi ngoe ngoảy ra đi. Lê-xuân-Kỳ liền kéo lại vuốt ve rồi nói rằng: « Cô đừng nóng mà hư việc, để thỉnh thoản toan mưu hại nó mà rửa hờn, còn hay hơn là chưởi mắng mà có ích gì. » Cẩm-Lệ nghe lời, bèn ngồi lại xỉa thuốc ba ngoai, giảnh mấy ngón tay có đeo hột xoàn ra mà chưng cho Lê-xuân-Kỳ coi rồi hỏi rằng: « Thầy tính mưu gì hay mà hại nó cho được? » Lê-xuân-Kỳ nói: « Khó khiết gì! Để ít bữa cho nguôi ngoai cái chuyện tôi mới gây với nó đây, rồi tôi làm bộ tới lui giả lả mà làm quen lại với nó, rủ nó đến đây chơi, rồi làm như vầy............ như vầy............ thì nó chạy đường trời cũng không khỏi ở tù. » Cẩm-Lệ nghe nói lấy làm đắc kế, khen ngợi chẳng cùng.
Đêm ấy hai đàng thong thả, mặc dầu gió gió trăng trăng, ân mặng tình nồng nói sao cho xiết. Cẩm-Lệ lại cổi ra một chiếc nhẩn có nhận hột xoàn mà cho Lê-xuân-Kỳ và nói rằng: « Vật nầy là vật quí của em, sớm trưa em chẳng hề lìa ra cho khỏi ngón tay; nay vì em quá thương thầy, nên phải lìa nó ra mà cho thầy, để làm dấu tích, xin thầy chớ lấy làm thường. » Lê-xuân-Kỳ cảm tạ ơn nàng rồi phân tay ra về, vì trời gần sáng.
Bữa kia nhằm ngày thứ bảy, Lê-xuân-Kỳ đến thăm Hoàng-hữu-Chí và mời Hoàng-hữu-Chí đến nhà tình-nhân của mình mà dùng một bữa cơm chiều đặng đàm đạo chơi. Nguyên Hoàng-hữu-Chí là người tinh tế, hay cẩn thận lắm, thuở nay ít hay nghe ai mời rủ mà chịu đi đâu bao giờ, và bấy lâu cũng ít ưa Lê-xuân-Kỳ cho lắm; nhưng vì nghe Lê-xuân-Kỳ thường hay khoe khoan Cẩm-Lệ là gái sắc tài gồm đủ, ngôn hạnh đoan trang, mà nhứt là nghề nấu ăn khéo lắm; nên cũng dùng dịp ấy đến chơi một phen cho biết, mà đó cũng là cái phần Hoàng-hữu-Chí phải mắc cái nạn lao tù vài tháng, nên khiến cho chàng ta hứa chịu. Lê xuân-Kỳ mừng rở vô cùng, bèn dặn dò xin đừng thất tín, rồi từ giã ra về, đi thẳng qua nhà mà cho Cẩm-Lệ hay đặng có toan tính với nhau sắp đặt lưới rập cho sẵn sàng mà chờ Hoàng-hữu-Chí.
Chiều bữa ấy lối sáu giờ, Hoàng-hữu-Chí vừa bước đến nơi, Lê-xuân-Kỳ làm bộ mừng rở chạy ra bắt tay mời vào chuyện vãn lăng xăng, rồi lại kêu mình ơi, mình hởi, mà nói rằng: « Thầy giáo đã lại rồi đây nè mình ơi! » Cẩm-Lệ ở trong nhà sau bước ra chào hỏi sơ sài, rồi xin kiếu vì mắc lo đồ ăn sau bếp.
Ngoài nầy Lê-xuân-Kỳ cứ ân cần mời Hoàng-hữu-Chí uống vài ly khai vị (apéritif) đặng có dùng cơm cho ngon bữa; và uống rượu và kiếm chuyện dông dài mà nói cầm chừng, vì bợm-ta nói gạt Hoàng-hữu-Chí rằng có mời đôi ba ông bạn đồng-liêu, nên phải uống rượu nói chuyện cầm chừng mà chờ khách. Đó là bợm-ta cố ý làm bữa ăn trễ cho khuya, cho tiện bề hạ thủ. (Viết tới đây ký-giả cũng bắt ghê bắt gớm cho cái lòng nham hiểm của người đời, càng thấy chừng nào càng thêm chán ngán).
Trời một ngày một khuya mà không thấy ai hết. Lê-xuân-Kỳ làm bộ xăn văn xéo véo, chạy ra chạy vào mà ngó chừng hoài, dường như trông ai lắm vậy. Đồng hồ gần gỏ tám giờ rồi mới làm bộ giận dũi mà nói rằng: « Thật mấy anh nầy khốn nạn quá! Đi, không đi gì cũng cho người ta biết, có lý nào đã hứa đi rồi để cho người ta chờ gần trối chết. Thôi, thây kệ, họ có tới trể thì họ uống rượu khan cho họ biết chừng. » Nói rồi liền nắm tay Hoàng-hữu-Chí dắc lại bàn ăn và nói rằng: « Trễ quá rồi, tôi đói bụng lắm, thôi, hai anh em mình đi ăn, chớ ai hơi sức đâu mà chờ họ nữa. » Rồi đó hai người ngồi lại ăn uống chuyện trò với nhau, Lê-xuân-Kỳ cố ý kiếm chuyện minh minh mông mông, ngông ngông nghênh nghênh mà nói mãi chớ không chịu dứt. Hoàng-hữu-Chí coi chừng đồng hồ, thấy đã chín giờ rưởi rồi, một lát lại thấy mười giờ. Có nhiều khi muốn giợm đứng dậy kiếu về, mà bị Lê-xuân-Kỳ cứ ngồi nói chuyện dông dông dài dài mà cầm lại mãi.
Gần mười một giờ khuya, Hoàng-hữu-Chí nhứt định kiếu về, Lê-xuân-Kỳ liệu chừng giờ ấy cũng vừa buổi ra tay rồi, bèn giả chước nói với Hoàng-hữu-Chí rằng: « Bây giờ trời cũng đã khuya rồi, vậy để tôi đóng bớt cữa giùm cho cổ, rồi tôi cũng đi về, tiện đường tôi xin đưa thầy về nhà luôn thể. » Đã đôi ba phen Hoàng-hữu-Chí muốn dứt ra mà về một mình, song bị Lê-xuân-Kỳ ân cần cầm cọng quá, nên không nở phất ý. (Thường người quân-tử mà mắc kế đứa tiểu-nhân, thì cũng vì có một cái lòng không nở mà thôi). Lúc nầy chén bác cổ bàn thì Cẩm-Lệ đã dọn dẹp hết rồi.
Khi Lê-xuân-Kỳ đóng cữa xong rồi lại giả ý nói rằng: « Xin thầy chịu phiền chờ tôi một chút, tôi đi tiểu tiện, tôi trở vô liền, rồi mình sẽ đi về với nhau. » Nói rồi liền tằng hắng một tiếng bèn bước rảo ra ngoài tìm đường mà dông mất. Hoàng-hữu-Chí ơ hờ, không dè là kế. Trong nầy Cẩm-Lệ nghe tằng hắng và thấy Lê-xuân-Kỳ đi rồi thì hội ý, liền bước ra làm bộ sợ gió, vói khép cữa lại, rồi quày trở vô, xuất kỳ bất ý, tay chụp niếu Hoàng-hữu-Chí, còn miệng thì thổi đèn và la làng inh ỏi. Hoàng-hữu-Chí thất kinh, miệng thì kêu Lê-xuân-Kỳ, còn tay thì gở Cẩm-Lệ ra đặng có giải vây mà chạy. Ai ngờ Lê-xuân-Kỳ đâu không thấy, lại thấy nào là Hương-quản, nào là lính tuần, nào là dân làng hơn trót mười người, kẻ đòn tay, người thước nách, ào vô áp bắt Hoàng-hữu-Chí; rồi hối đốt đèn lên đặng có mở đàng tra vấn. Hương-quản làm bộ nhìn coi rồi giả ý lấy làm lạ mà nói rằng: « Ủa! Thầy giáo đây mà! Trời đất ôi! Thầy làm cái gì mà lạ vậy thầy? Nhà người ta là con gái côi cút có một mình, đêm hôm tăm tối, thầy lỏn vào đây chi vậy? » Hoàng-hữu-Chí cứ đem việc Lê-xuân-Kỳ mời mình ăn cơm mà thuật lại, mà có ai chịu tin cho. Hương-quản nói: « Thầy nói sao khó nghe quá! Vã thầy Lê-xuân-Kỳ có nhà có cữa, cách đây cũng chẳng bao xa, nếu thẩy muốn đãi thầy thì mời về nhà thẩy mà đãi, chớ ở đây là nhà của Cẩm-nương, có bà con thân thích gì với thẩy mà thẩy mời thầy lại đây ăn cơm; thầy nói sao lạ vậy? À! Còn như thầy nói thẩy mời thầy ăn cơm, vậy chớ thẩy ở đâu, sao không thấy; có phải là tình ngay mà lý gian chăng? » Hỏi Cẩm-Lệ thì Cẩm-Lệ cứ khai quyết rằng: « Tôi đang ngủ nửa đêm, không biết thẩy cạy cữa mà vô hồi nào, ý muốn gian dâm, tôi không chịu, thẩy lại hâm dọa đòi giết tôi. nên tôi sợ mà la làng. Thẩy muốn thoát chạy, bị tôi niếu kéo nhủn nhẳn, may nhờ mấy ông tới kịp, chớ không thì ắt thẩy đã giết tôi rồi. » (Nguyên Lê-xuân-Kỳ đã mướn bọn nầy mà sắp đặt trước rồi; cho nên Hoàng-hữu-Chí dầu có cái lưỡi bén như gươm đi nữa, cũng không cải cho qua được). Hương-quản lại làm bộ ngay thẳng mà nói rằng: « Cô nầy khai vậy, thầy nọ khai vầy, chưa biết ai ngay ai gian, phận tôi làm làng, cứ việc còng khan, giải nạp tới quan, chừng ấy hai đàng, mặc dầu đối nại. » Nói rồi liền hối dân còng Hoàng-hữu-Chí lại. Ban đầu Hoàng-hữu-Chí còn vùng vẩy không chịu cho còng, sau thấy chúng nó đông quá, liệu cự không lại, mà còn e nếu mình cự với chúng nó đây thì ắt chúng nó sẽ làm nhục mình; chi bằng tùy thời nhẫn nại, chờ đến chỗ công-lý sẽ hay. Bỡi nghĩ vậy nên cũng dằn lòng mà để cho những bọn đầu trâu mặt ngựa, mặc dầu còng trói.
Thiệt là: Rồng nằm nước cạn tôm lờn mặt,
Cọp xuống đất bằng chó ngoắt đuôi.
Liền đó, Hương-quản dạy dân dắc Hoàng-hữu-Chí đem về giam đỡ tại bót làng. Sáng ra bữa sau mới làm phúc-bẩm rồi hiệp với khai báo hai đàng và chứng cớ mà giải hết nội vụ đến quan Biện-lý.
Quan Biện-lý liền tra hỏi tên họ cha mẹ, quê quán, tổng làng, tên tuổi và chức nghiệp xong xuôi, dạy giam Hoàng-hữu-Chí rồi giao hết giấy tờ nội vụ cho quan Bồi-thẩm mở đàng tra vấn.
Ngày ấy thiên hạ lao nhao lố nhố, xậm xì, xậm xịt đồn rùm rằng: « Đêm hôm qua thầy giáo Hoàng-hữu-Chí lén đến cạy cữa vào nhà Cẩm-Lệ, cố ý cường dâm sao đó, bị làng bắt giải, tòa đã giam rồi. Nghe được tin chẳng lành ấy nội nhà bà Phủ, cả ba mẹ con đều lấy làm lạ, dường như sét đánh vào tai, suy tới nghĩ lui, bàn qua tính lại rằng: « Không lẽ, một người học thức như vậy, tánh tình như vậy mà lại làm đều nhục nhã, vô liêm sỉ, bất lương tâm? » Rồi lại nghĩ rằng: « Mà cũng không lẽ, chó đâu có sủa lỗ không? Nếu không vậy thì đêm hôm khuya khoắc, ma dắc lối quỉ đem đường hay sao mà đi đâu đó cho người ta bắt vậy? » Lúc ấy bà Phủ lấy làm bối rối, vì bấy lâu bà thấy tánh tình và thái độ của Hoàng-hữu-Chí mà thương, nên bà quyết ý muốn gả Xuân-Lan cho chàng, song chưa kịp tính, mà nay lại sanh ra việc luân thường tồi bại như vầy, làm cho bà thất vọng. Bèn tính để hỏi thăm và dọ nghe lại thử coi cho biết chơn giả lẻ nào rồi sẽ liệu.
Còn Hoàng-hữu-Chí bị giam trong khám, cứ ngồi lặng thinh, trầm tư mật tưởng, suy nghĩ một mình. Nghĩ tới cái mưu gian của Lê-xuân-Kỳ thật là quá độc, chừng ấy mới biết lòng người nham hiểm, nghĩ lại mà dùng mình. Bèn nói thầm rằng: « Hèn chi người ta nói: Bất phách hổ sanh tam cá khẩu, chỉ khủng nhân hoài tưởng dạng tâm.[12] Thật là lời ấy không lầm. » Một mình suy tới nghĩ lui, mới biết cái đường đời nó gay go là thế. Tuy vậy chớ chàng ta cũng chẳng hề nao núng tấc lòng, vì tự biết cho mình hẵn thật là vàng mười; càng nung nấu chừng nào thì càng tốt càng tươi, không sờn không rúng.
Dầu cho sấm sét búa riều,
Cũng đam vàng đá mà liều với thân.
Song ngồi mà nghĩ lại từ ngày ta lên đất Tây-ninh đến nay, chẳng có một người biết được lòng ta; duy có một mình bà Phủ Ân biết ta mà yêu vì kính trọng đó thôi, thế thì bà Phủ nầy tức là tri-kỷ của ta đó. Đến như cái việc hàm oan của ta đây, mặc tình thế tục nghị luận lăng xăng, dầu họ có đề quyết cho ta đi nữa, ta cũng chẳng sờn, ta chỉ phú cho cao-xanh soi xét. Ta lo là lo có một mình bà Phủ mà thôi, vì sợ e bà cũng lấy theo phụ nữ thường tình mà ức độ cho ta rằng quả có làm đều cang danh phạm nghĩa ấy, thì rất uổng cho cái lòng tốt của bà yêu vì kính trọng ta tự bấy lâu nay. Vậy thì ta phải tạm kính ít hàng gởi ra mà tố trần cái đều oan khuất của ta cho bà rõ, đặng cho bà minh được cái tâm-tích của ta, dầu có thác cũng đành nhắm mắt. » Nghĩ rồi bèn hỏi lính gát khám, mượn một cây viết chì và xin một chút giấy viết lảo thảo vài hàng như vầy:
Một ngày tri ngộ, muôn kiếp ghi xương;
Tai họa phi thường, cao-xanh soi xét;
Tình đời thương ghét, cháu để ngoài tai;
Cháu một xin bà, biết cho là đủ.
Viết rồi xếp lại, cậy người lính gát, chờ lúc mãn phiên, xin đem ra giùm trao cho bà Phủ.
Khi bà Phủ được thơ, liền lấy ra một đồng bạc mà cho tên lính đem thơ. Tên lính tạ ơn đi rồi, bà mới kêu hai cô con ra, dạy ngồi bên cạnh, rồi mới mở bức thơ ra mà xem chung với nhau. Bà và xem thơ và suy nghĩ hồi lâu rồi mới nói với hai cô con rằng: « Thầy giáo thẩy nói như vầy thì má cũng bán tín bán nghi quá đi con; vậy sẵn thầy thông đứng bàn của quan Bồi-thẩm nầy với má cũng có quen. Thôi, để tối nay má đi lại nhà thẩy mà hỏi thăm thử coi, lời khai báo thể nào và việc dữ lành cho biết. » Hai cô con cũng lấy làm phải.
Đêm ấy lối bảy giờ, bà ngồi xe kéo đến nhà thầy thông. Nguyên thầy thông nầy vẫn cũng biết bà là người đạo-đức, nên có lòng kính trọng đã lâu, khi thấy bà bước vào thì vội vàng chào hỏi lăng xăng, lại hối bồi rót nước bưng ra mời bà rồi hỏi rằng: « Chẳng hay bà có việc chi mà đến nhà cháu tăm tối như vầy? » Bà Phủ bèn tỏ thật việc mình muốn đến hỏi thăm về vụ thầy Hoàng-hữu-Chí. Thầy thông liền lắc đầu mà nói rằng: « Cha chả! Tội nghiệp cho thầy giáo Chí quá, vì tôi biết thẩy tuổi tuy còn nhỏ mà ăn ở dễ thương; từ ngày thẩy đổi lại đây tới nay, thật thẩy chẳng biết mích lòng một thằng con nít. Không biết thẩy có thù oán chi với thông Kỳ hay không mà sanh ra việc lăng nhăng như vậy? Thật chuyến nầy tôi sợ cho thẩy ắt gở không ra rồi đa bà. Vì theo lời khai của thẩy thì thẩy nói rằng thầy Lê-xuân-Kỳ mời thẩy lại nhà tình-nhân là Cẩm-Lệ mà ăn cơm; thẩy vô ý ơ hờ, không dè bọn kia âm mưu toa rập với nhau, sắp đặt sẵn trước bao giờ mà gạt thẩy, cầm thẩy ở lại cho khuya rồi phao vu cho thẩy những đều vô liêm sỉ vậy vậy.......... Còn con Cẩm-Lệ thì nó khai quả quyết rằng nó là gái mồ-côi, một mình ở một nhà, đương ngủ nửa đêm, bị thầy giáo Chí cạy cữa lỏn vào, mong toan cường bức, ép uổng gái tơ, muốn vùi hoa dập liểu, lại hâm dọa đòi chém đòi đâm là khác nữa. Hỏi Lê-xuân-Kỳ thì va khai rằng đêm ấy va ngủ ở nhà va, cách nhà Cẩm-Lệ hơn năm trăm thước; va cũng không quen biết chi với thầy giáo Chí mà mời thẩy ăn cơm, mà nếu có mời ăn cơm thì mời thẳng về nhà của va, chớ Cẩm-Lệ là gái chưa chồng, lại cũng chẳng phải bà-con thân-thích chi với va, thì có lý nào mà va lại được mời khách tới ăn cơm nơi nhà Cẩm-Lệ.
Hỏi chứng là Hương-quản và một tên lính tuần với tám tên dân làng, thì chúng nó đều khai có một rập với nhau rằng đêm ấy lối mười một giờ khuya, chúng nó đương đi tuần đường cũng gần lối đó, thình lình nghe tiếng Cẩm-Lệ la làng, bèn rủ nhau chạy tới, thấy trong nhà Cẩm-Lệ đèn đuốc tối thui, tông cữa áp vào nổi đèn lên thì thấy Cẩm-Lệ miệng còn la làng mà hai tay thì niếu thầy-giáo Chí nhủng nhẳng gần lối cữa buồng, nên chúng nó phải bắt thẩy và lấy khai rồi giải nạp. Đó! Bà nghỉ mà coi, bên thầy giáo thì chứng cớ không ngơ, còn phía bên bọn Cẩm-Lệ thì đông, mà họ xúm nhau chúng khẩu đồng từ thì chết tươi thầy giáo rồi còn gì! Cha chả! Khó quá!! Chuyến nầy tôi sợ thẩy gở không nổi đa bà. » Và nói và chắt lưỡi lắc đầu, lại vói lấy một điếu thuốc, quẹt lửa lên đốt hút phì phà vài hơi rồi lại nói rằng: « Bây giờ mà muốn lo cho thẩy thì phải mướn quan Thầy-kiện bàu chữa mới xong; chớ việc nầy tuy coi su sơ như vậy, mà nữa đây chắc sẽ giải cho tới đại-hình lận đa bà. » Bà Phủ nghe rõ đầu đuôi, mặt mày buồn nghiến, liền đứng giậy tạ ơn và từ giã thầy-thông rồi lên xe kéo quày quả về nhà thuật lại cho chị em Thu-Cúc với Xuân-Lan nghe. Thu-Cúc nghe rõ trước sau rồi ngồi làm thinh và suy nghĩ một mình, hồi lâu mới hội ý, liền kêu bà Phủ mà nói rằng: « Nè má! Phải rồi đa má!! Thật quả thầy Hoàng-hữu-Chí đã lầm mưu độc của bọn nầy rồi đa má. Vì con vẫn có nghe danh Lê-xuân-Kỳ là một đứa tham tài háo sắc, phản phúc tiểu-nhân, mà nó lại có tư tình với con Cẩm-Lệ đã lâu. Còn thầy Hoàng-hữu-Chí nầy là một người khí khái, tánh tình cang trực, hay quí trọng người quân-tử, mà khinh bạc đứa tiểu-nhân. Mỗi khi đàm luận với ai, thì thẩy thường dùng nghĩa chánh từ nghiêm, chẳng chịu bợ bưng, không hay vì nể; bỡi vậy mà hay mích lòng những kẻ tiểu-nhân, cho nên ngày nay mới sanh họa. Vì lời xưa có nói: Khinh bạc chi thái, thi ư quân-tử tắc táng ngô đước; thi ư tiểu-nhân tắc sát ngô thân[13]. Mà thật rõ ràng như vậy đó. » Bà Phủ nghe Thu-Cúc luận mấy lời, bà cũng cho là phải; bèn nói với chị em Thu-Cúc rằng: « Việc nầy cũng tại nó cậy nói em con, mà má không chịu gả, phần thì nó thấy Hoàng-hữu-Chí thường hay lai vãng nhà ta, nên nó mới sanh lòng đố kỵ mà di oán qua cho Hoàng-hữu-Chí. Nay thầy Hoàng-hữu-Chí mà mắc họa đây, gốc cũng bỡi nhà mình mà ra. Vậy thì má cũng phải liều tốn ít trăm, mướn Thầy-kiện cho đại tài mà cứu thẩy, chớ phép sao bây giờ. » Còn đang bàn luận với nhau, bỗng nghe đồng hồ đã gõ mười giờ; bà Phủ bèn đi nghỉ.
Đêm ấy hai chị em Thu-Cúc với Xuân-Lan, cùng nhau luận luận bàn bàn, lo tới tính lui, trót một hai giờ mà lo cũng chưa ra chuyện. Một chặp lâu Xuân-Lan mới nói với Thu-Cúc rằng: « Nè chị! Lấy theo lời của má luận với chị em mình hồi nảy đó, thì té ra thầy Hoàng-hữu-Chí mà bị hoạn họa đây, là gốc bỡi nơi em mà ra. Thế thì em không nỡ điềm nhiên tọa thị mà để vậy cho đành, nên em muốn liều cái thân danh, chịu mang lấy tiếng nhơ trong một lúc mà cứu Hoàng-hữu-Chí cho được vẹn toàn; chẳng hay ý chị thể nào xin nói cho em rõ với. Thu-Cúc hỏi: « Em muốn dùng cách nào đặng cứu thẩy mà phải liều mất cái thân danh vậy em. » Xuân-Lan liền kề tai nói nhỏ với Thu-Cúc một hồi rồi lại nói rằng: « Làm như vậy...... như vậy...... đó, thì cứu thẩy mới được. » Thu-Cúc nghe rõ rồi mỉn cười và vỗ vai Xuân-Lan mà khen rằng: « Cái kế của em tính đó dầu cho Phạm-Lải tái sanh cũng không hơn được; vã nó là một đứa háo sắc, nếu em dùng kế đó, ắt nó phải máng rồi, em cứ thi hành liền đi, mựa đừng dụ dự; song em phải cẩn thận cho lắm mới được đa em. » Xuân-Lan lại nói: « Mưu bất khả chúng[14], cho nên lời em nói ra thì nó lọt vào tai chị mà thôi, chớ em há đi dại gì lại nói với ai hay sao mà chị phòng dặn vậy; chí như má ở nhà đây, chị em mình cũng phải dấu luôn, nếu chừng nào má thấy em làm như vậy....... như vậy....... mà má có tưởng em là đồ mất nết, thì mặc tình quở trách đuổi xua, em cũng cam tâm mà chịu; miễn làm sao cho mưu kế được thành mà cứu người là đủ. » Thu-Cúc gặt đầu khen phải. Rồi đó hai chị em lại rù rỉ nhỏ to với nhau một hồi rất lâu, sắp đặt rập ràng đâu đó xong xuôi thì đồng hồ đã gõ một giờ khuya rồi. Chừng ấy hai chị em mới tắt đèn dắc nhau đi nghỉ.
Từ đó mỗi buổi sớm mai, cô Xuân-Lan thường đi chợ, đầu cổ cô ngó vẽn vang, hình dung cô xem rất đẹp; bữa thì cô mặc áo cẩm-nhung đen, bữa thì cô lại đổi áo sa-ten màu tím sậm; cổ có đeo ba sợi dây chuyền, hai cườm tay cô lại đeo hai xâu chuổi hột, ngón tay cô như mũi viết, cổ tay cô tròn vo; nước da cô trắng đỏ, nét mặt cô sáng rở như một đóa phù-dung. Cái vẽ đẹp của cô thật là tuyệt thế vô song, lục tĩnh ta cũng ít có.
(Phàm viết sách mà dụng cách tả chơn thì phải tả ra cho rõ mà xem: chớ từ xưa đến nay những cô gái nào có phước mà được có cái vẽ đẹp thiên nhiên rồi, dầu cho ăn mặc cách nào, thức gì, thì cái vẽ xinh đẹp tự nhiên cũng xinh đẹp).
Khi ra tới chợ rồi thì cô cứ cố ý mua bươn, mua bả, mua hối, mua hả cho rồi, đặng lựa cho đúng giờ của Lê-xuân-Kỳ đi làm việc, mà về cho kịp, cho hai đàng gặp nhau; mà mỗi khi gặp nhau, cô lại làm màu nét mặt tươi cười, chào hỏi một cách rất là niềm nở.
(Húy chao ôi! Một cái nét cười của một ả mỷ-nhân, dễ gì mà có, dễ gì mà mua cho được).
Ban đầu hễ gặp nhau thì bất quá là chào hỏi sơ qua vậy thôi, vậy mà còn làm cho Lê-xuân-Kỳ thần-tình phải điên đảo thay! Huống chi sau rồi lần lần cô lại làm ra tuồng mi lai nhãn khứ, thì Lê-xuân-Kỳ tài nào mà không điến ngất cả người.
Thường bữa cũng thường gặp nhau như vậy, mà ngày nào cô cũng cố ý làm mồi trêu ngươi như vậy, làm cho tam hồn thất phách của Lê-xuân-Kỳ đều phải dật dờ dật dưởi bay bổng theo cô; duy ức có một đều là không biết làm sao cho được gần cô mà tỏ bày tâm sự.
Những mảng lần lừa như vậy mà đã trót tháng ngoài, kế nghe Tòa đã giải Hoàng-hữu-Chí về Saigon đặng chờ ngày Đại-hình hội xử.
Bà Phủ hay được tin ấy, liền lấy bạc bỏ lưng, phú thát nhà cữa cho Xuân-Lan, dắc Thu-Cúc theo làm Thông-ngôn, mướn xe hơi đưa hai mẹ con bà xuống Saigon tìm nhà quan Thầy-kiện mà lo cho Hoàng-hữu-Chí; bà năn nỉ với ngài xin rán bào chữa giùm đặng cứu người vô cô mà thọ khuất. Bà lại nhơn hỏi thăm luôn cho biết ngày nào Tòa Đại-hình xử vụ Hoàng-hữu-Chí. Quan Thầy-kiện bèn nói cho bà hay rằng ngày 18 tháng Octobre là ngày Tòa Đại-hình hội xử; ngài lại hứa với bà rằng ngài sẽ rán hết sức hết lòng tìm cho ra cớ, để biện giải mà lấy danh, bà hãy an lòng không sao mà ngại.
Rồi đó bà liền đóng tất số bạc cho quan Thầy-kiện và từ giã mà ra, bà lại nhơn tiện, bảo xe đưa hai mẹ con bà lên đường Thuận-kiều đặng bà thăm vợ chồng ông Phán-Ngãi là người quen lớn với vợ chồng bà tự bấy lâu nay.
Khi xe bà Phủ vừa ngừng nơi trước cữa, thì vợ chồng ông Phán đang ở trong nhà, xem thấy mừng rở chạy ra chào hỏi lăng xăng, hối trẻ xách cái quả cẩn của bà vô nhà, trầu nước khuyên mời và cầm luôn bà ở đó dùng cơm. Nhơn thấy Thu-Cúc cốt cách phương phi, nết na đầm thấm thì hỏi rằng: « Ủa! Con cháu đây là con ai vậy chị Phủ? » (Vì hai vợ chồng ông Phán vẫn biết bà Phủ không có con cái chi, mà nay thấy có một cô gái nào cực kỳ xinh đẹp, nề nết đáng thương mà đi theo bà đây, nên mới lấy làm lạ mà hỏi thăm cho biết). Bà Phủ bèn đam hết lai lịch của hai chị em Thu-Cúc và Xuân-Lan đầu đuôi sự tích từ ngày bà gặp và đem hết cả ba chị em về mà nuôi làm con; hai gái thì ở nhà sớm trưa hủ hỉ với bà, còn một trai thì bà lại đóng tiền mà cho ở học tại trường Nguyễn-phan-Long Saigon, cùng những việc gởi bạc giúp thêm học phí cho Phan-quốc-Chấn bên Tây và việc Hoàng-hữu-Chí mắc nạn mà bà phải đi lo; trước sau các việc bà thuật hết một hồi cho hai vợ chồng ông Phán-Ngãi nghe. Hai vợ chồng ông Phán nghe rõ đầu đuôi thì lấy làm khen ngợi bà Phủ là người độ lượng khoan nhơn; thật là một người trọng nghĩa khinh tài, nữ trung hào kiệt.
Rồi đó ông Phán lại chỉ Thu-Cúc mà nói với bà Phủ rằng: « Tưởng cháu đây là con ai, té ra nó là con của anh Huyện Nguyễn-trọng-Luân. Cơ khổ! Vậy mà tôi quên phứt nó đi chớ, vì lúc ảnh còn ở Saigon thì nó còn nhỏ xíu, phần thì chị em nó mắc ở học trong Nữ-học-đường, tôi tới chơi với ảnh hoài mà ít hay thấy nó; rồi từ hồi ảnh về trển tới nay, cũng 4, 5 năm gì đó, bây giờ cháu đà lớn đại, nên tôi không nhớ được. Tưởng là chị nói ai kìa, chớ ông già nó và anh Phan-mẫn-Đạt đều là anh em bạn học với tôi hồi buổi nhỏ. Đây nè!...... » Và nói và bước lại kéo cái hộc tủ lấy ra một bức thơ mà khoe với hai mẹ con bà Phủ và nói rằng: « Nầy là thơ của anh Huyện, ông già của cháu đây, mới gởi về cho tôi hai ba bữa rày mà cho tôi hay rằng ảnh với anh Phan bây giờ đương làm chủ-bút cho một Tòa báo Quốc-văn tại Bắc-kỳ và ảnh có cậy tôi gởi thơ lên Vỉnh-an-hà mà hỏi thăm giùm tin của mấy cháu; tôi chưa kịp viết, mà cũng may sao hôm nay chị lại dắc cháu đến đây; ấy quả là lòng trời xui khiến đó. » Thu-Cúc nghe được tin tức của cha mình thì khấp khởi mừng thầm, bèn liếc mắt xem coi thấy bức thơ ông Phán đương cầm trên tay, nhìn đã rõ ràng thật quả là bút tích của cha mình, không sai một nét; trong lòng mừng quá đổi mừng.
Thật là: Khi nên trời cũng chìu người,
Mừng nầy dầu được vàng mười chẳng hơn.
Lúc ấy bà Phủ cũng vui lòng, lấy làm toại chí; bà lại hối Thu-Cúc viết thơ gởi liền ra Bắc mà thăm cha nàng nội trong ngày ấy. Thu-Cúc liền hỏi ông Phán xin giấy viết thơ, tỏ hết đầu đuôi gốc ngọn nhứt nhứt các việc từ ngày cha mình ra đi cho đến bây giờ, rồi niêm phong tử tế, lại hỏi thăm ông Phán cho biết chỗ ở của cha mình mà đề bao thơ rồi đem bỏ thùng mà gởi đi liền nội trong ngày ấy.
Hai mẹ con nghỉ ngơi tại đó cho đến ba giờ chiều, rồi mới giã từ vợ chồng ông Phán, bước lên ô-tô, bảo sốp-phơ chạy lên đường Legrand de la Liraye đặng ghé vào trường Nguyễn-phan-Long mà thăm em nàng là Nguyễn-trọng-Liêm trong giây phút rồi mới chạy thẳng về Tây-ninh.
Về tới nhà rồi Thu-Cúc bèn thuật việc nhờ mẹ dắc mình ghé nhà ông Phán-Ngãi, nên mới biết được tin tức của cha mình và luôn dịp mình đã gởi thơ ra Bắc mà thăm cha và cho cha mình biết các việc trong nầy rồi. Xuân-Lan nghe nói mừng quá đổi mừng.
Lần hồi ngày tháng như thoi, mới đó mà đã gần tới ngày Tòa xử.
Ngày kia Xuân-Lan đi chợ về, cũng vừa gặp Lê-xuân-Kỳ đương buổi đi làm việc. Hai đàng cũng niềm nở chào hỏi nhau như mội bữa. Xuân-Lan xem trước nhắm sau, liệu chừng chẳng thấy có ai, bèn nói nho nhỏ rằng: « Trưa nay đúng mười hai giờ, em xin mời thầy đến tại quán của dì Tư-Quăng cho em hỏi thăm thầy một chuyện. » Lê-xuân-Kỳ mừng quýnh dường như tiếp được đơn-chiếu của vua. Liền trả lời rằng: « Tôi rất sẵn lòng, xin cô đừng thất tín ». Xuân-Lan gặt đầu, miệng cười chúm chím, rồi đi thẳng về nhà. Lê-xuân-Kỳ lòng mừng khấp khởi, vào đến bu-rô (bureau) trọn một buổi sớm mai, không viết lách gì được hết, cứ dòm chừng đồng hồ hoài. Mà thật cái đồng hồ bữa ấy nó tệ quá! Độc thật! Ác thật!! Trông hoài mà sao không thấy tới giờ; nó làm như hình liệt máy rồi vậy, cứ đứng trân một chỗ, trông mãi mà cũng không thấy nó đi. Trông hoài trông hủy, trông hết sức trông, trong lòng nóng nảy, ngồi đứng không yên. Thình lình vùng nghe tiếng trống tan hầu, dường như tù được tin tha bổng. Lúc bấy giờ, Lê-xuân-Kỳ mừng quá đổi mừng, vội vàng xách nón ra về.
Về tới nhà không kịp thay đồ, cứ việc hối đứa ở dọn cơm, ăn hối ăn hả ba hột, rồi coi chừng đồng hồ, thấy đã mười một giờ ba khắc. Bèn sắm sửa đi liền, tuốt lại quán Tư-Quăng là nơi ước hẹn.
Còn Xuân-Lan khi cơm nước xong xuôi, chờ cho bà Phủ nghỉ trưa, mới nói cho Thu-Cúc hay, rồi lỏn ra ngã sau tuốt lại quán Tư-Quăng là chỗ đem mồi mà nhử cá.
Khi đến nơi vừa bước chơn vào, thấy Lê-xuân-Kỳ đã tới hồi nào, đương ngồi chờ đó. Xuân-Lan bước tới, xẻn lẻn trăm bề, trong lòng hồi hộp, chơn bước ngập ngừng; vì nàng là gái đương xuân, hễ thấy trai thì khép nép. Còn Lê-xuân-Kỳ mà thấy Xuân-Lan, thì nào có khác chi là mèo thấy mỡ; nhưng bỡi biết nàng là gái nết na đoan chánh, cho nên lòng cũng kiên dè, chớ không dám bốc hốt như con gái nhà tầm thường kia vậy. Bèn mở giọng rằng: « Bấy lâu tôi nghe cô là con nhà thi lễ, ngôn hạnh lưởng toàn, thật tôi lấy làm ái mộ, nên tôi muốn tính cuộc trăm năm, mới cậy người đến nói, không dè mà bà thân mẫu của cô lại không chịu gả, nên tôi lấy làm uất ức bấy lâu. Ai ngờ cô lại có lòng đoái tưởng, thì cái ơn tri-kỷ nầy tôi phải tạc dạ ghi xương, song tôi chẳng biết tính lẽ nào cho lưởng toàn kỳ mỷ; nhờ cô dạy bảo cho tôi. »
Xuân-Lan lúc bấy giờ, đương đối diện với cừu-nhân mà phải làm màu vui vẽ, thì trong lòng hổ thẹn, muôn đắng ngàn cay; thật rất khổ tâm thay! Song vì muốn cho nên việc, nên phải ráng bấm gan mà làm mặt dạn mày dày, dằng lòng nhẫn nhục, nét mặt tươi cười mà nói rằng: « Bấy lâu em vẫn biết thầy là người trung hậu quân-tử, phẩm hạnh đoan trang, thật em cũng hết lòng ái mộ; may sao thầy cũng có lòng thương tưởng cậy mai đến nói em đã đôi ba phen, ngặt vì bà Phủ là mẹ nuôi của em, ý không chịu gả, lại muốn để mà gả em cho Hoàng-hữu-Chí là một đứa xấc xược kiêu căng, thật là đáng ghét, nên em không biết liệu làm sao; vì em đã thọ ơn bà, em không dám cải. May đâu lại khiến cho nó làm đều nhục nhã mà phải bị tù, thật em mừng quá. Vậy nếu như thầy mà quả có lòng thương tưởng đến em, thì xin rán chịu phiền chờ đợi một ít lâu, chừng vài ba tháng nữa ông thân sanh của em ở Bắc mà về đây; chừng ấy nếu thầy cậy người đến nói, ắt ổng gả liền, vì bình sanh ổng cưng em lắm, hễ em ưng chỗ nào thì ổng cũng ưng theo chỗ nấy. Nay em mà ước hẹn với thầy đến đây là có ý để tỏ bày tâm-sự của em. Vậy nếu như thầy quả thật có lòng thương tưởng đến em mà tính cuộc trăm năm kết tóc, thì em xin thầy phải cho em một vật quí báu chi đặng để mà làm tin; được như vậy thì em mới tin hẵn lòng thầy, dầu cho đến mấy năm em cũng an lòng mà chờ đợi vậy. » Xuân-Lan và nói và cố ý ngó chừng chiếc nhẩn của Lê-xuân-Kỳ đương đeo trong tay mãi.
Lê-xuân-Kỳ hội ý, biết Xuân-Lan muốn chiếc nhẩn của mình, ngặt vì chiếc nhẩn ấy vốn của Cẩm-Lệ tặng cho, để làm dấu tích; không lẽ mà mình lại đam ra mà cho người khác. Ban đầu hãy còn dụ dự, tấn thối lưởng nan, sau bị thần ái-tình nó giục riết, phần thì tam hồn thất phách đã phưởng phất theo Xuân-Lan, cho nên bợm-ta chẳng còn chủ-trương gì nữa hết; liền cổi phứt chiếc nhẩn trong tay ra, trao cho Xuân-Lan mà nói rằng: « Nầy là cái núm ruột của tôi đây, ngặt vì tôi quá yêu cô, nên tôi phải cát ái,[15] để tặng cho cô làm tin; mai sau dầu sở nguyện được thành[16], thì lời ước hẹn xin cô chớ phụ. » Xuân-Lan ngửa tay vói lấy chiếc nhẩn rồi nói rằng: « Như vầy thì em mới dám tin được lòng thầy, vậy từ đây, non xanh chẳng mất, nước biếc hãy còn; một tấm lòng son, ngàn năm chẳng lợt. Nhưng em còn một đều nầy nữa thật rất nên bó buộc, xin thầy dung thứ cho em; vã mẹ nuôi của em là bà Phủ, tánh tình gắt gớm lắm, em sợ e không được cùng thầy giáp mặt cho thường; đều ấy em xin thầy chớ ngại. Vậy em đi nảy giờ cũng đã lâu rồi, xin để cho em về, kẻo má em thức dậy ắt là khó lắm. » Lê-xuân-Kỳ coi lại đồng hồ, thấy đã hai giờ, cũng gần tới giờ phải đi làm việc rồi; cực chẳng đã nên phải đinh ninh vài lời, rồi phân tay nhau ai về nhà nấy. (Mưu kế của Xuân-Lan đến đây, thế là xong việc).
Lê-xuân-Kỳ về nhà lấy làm mãn nguyện, dương dương đắc ý, trông cho mau tới ngày tòa xử, đặng coi cho biết Hoàng-hữu-Chí bị án mấy năm; suy tới nghĩ lui, lấy làm đắc kế.
Còn Xuân-Lan khi về tới nhà thì bà Phủ thức dậy đã lâu, bèn hỏi nảng đi đâu, thì nảng kiếm đều che trước đậy sau ma nói cho qua chuyện. Tuy là khuất lấp được bà; nhưng mà, từ đó bà đã sanh lòng nghi ngại.
Đêm ấy Xuân-Lan chờ cho bà an giấc, rồi mới nhỏ to mà thuật lại hết cho chị nghe, lại lấy chiếc nhẩn ra mà khoe và lấy làm đắc kế. Thu-Cúc thấy kế đã thành trong lòng mừng lắm; song cũng dặn em phải cẫn thận cái mưu thần, mựa đừng sơ lậu.
Chẳng dè, cái mưu thì kín nhẹm, còn chuyện kia thì thúng khó úp voi, một miệng kín chín mười miệng hở. Từ ngày Xuân-Lan trò chuyện với Lê-xuân-Kỳ tại quán Tư-Quăng, thiên hạ đồn rùm, thấu tới tai bà Phủ. Bà liền tức giận bồi hồi, trách sao nảng lại tư tình với đứa nghịch. Nhưng mà, bà tuy giận vậy, song bà không la hét như kẻ tầm thường, cứ lấy đều đại nghĩa mà thống trách âm thầm vậy thôi, chớ người ngoài không ai nghe được. Thu-Cúc cũng giả ý rầy em, mắng nhiếc Xuân-Lan là đồ hư đồ chạ. Bà nghĩ tới chừng nào thì bà lại càng ứa gan chừng nấy, Bà bèn nhứt định đuổi nàng, chớ không thèm nuôi chứa trong nhà thứ đồ hư như vậy nữa.
LỜI BÀN: (Bà Phủ giận phải lắm, đuổi cũng phải lắm!
Điều thứ nhứt là con gái trong hạng danh-gia mà làm đều nhục nhã, hư danh mất nết; thật là tội ác quán dinh. Điều thứ hai là nhè đứa nghịch mà tư tình, rất phản đối với cái chủ nghĩa của bà; lẽ nào bà không giận? Bà giận phải! Bà giận nhằm!! Ai là người không giận?? — Nhưng nghĩ cho đến mấy cái đều đáng giận đó; rồi mới đáng sợ, đáng thương, đáng kính, đáng vì cô Xuân-Lan là một nàng con gái thiếu niên, đào tơ liểu yếu mà tâm chí rất cao, vì nghĩa cứu người mà phải liều danh-giá. Thật cũng khổ tâm thay! Mà cũng đáng thương đáng kính thay!!)
Khi Xuân-Lan bị bà Phủ đuổi rồi, thì cũng làm màu khóc lóc, gói áo quần, lạy mẹ và chị xách gói ra đi; bà Phủ cũng ngùi ngùi, song vì giận quá nên cũng làm lơ, để nảng đi cho rảnh.
Còn Xuân-Lan khi ra khỏi nhà rồi, chẳng cho ai biết là mình đi đâu, lén lén xách gói đi thẳng lại nhà bà Sáu-Thiện mà ở nhờ. Nàng lấy ra năm đồng bạc trao cho bà Sáu, bảo đi mua gạo và những đồ vặt cần dùng; nàng lại dặn dò đừng cho ai biết có nàng ở đậu trong nhà; ấy là nàng có ý sợ e cho Lê-xuân-Kỳ biết được rồi ăn quen mà mò tới.
Thật là: Cực kỳ khôn ngoan, cực kỳ tinh tế. (Nguyên bà Sáu-Thiện nầy, trước kia vẩn có ở nấu ăn cho bà Phủ, cho nên hai đàng mới biết được nhau. Bà nầy cũng có một đứa con gái chừng 15, 16 tuổi, chớ chẳng có con trai, ngày chí tối chỉ lo mua gánh bán bưng mà độ nhựt, có hai mẹ con hủ hỉ với nhau). Xuân-Lan ở đỡ tại nơi nhà nầy cũng là an phận.
Việc lôi thôi như vậy, lẽ nào Cẩm-Lệ lại chẳng hay, tiếng đồn nghe đã nhiều ngày, nàng-ta mới nổi ghen, bèn đón Lê-xuân-Kỳ mà hỏi. Còn Lê-xuân-Kỳ từ ngày mà được trò chuyện với Xuân-Lan rồi thì cặp con mắt của chàng, nhìn Cẩm-Lệ như nhìn Chung-vô-Diệm.
Ấy là: Tằng kinh Thương-hải nan vi thủy,
Trừ khước Vu-San bất thị vân[17].
Mà xưa nay những lời nói của đờn bà ghen tương, thì có lời nào là lời không xóc ốc? Bỡi vậy cho nên Lê-xuân-Kỳ cũng nổi giận, nói đi nói lại nhiều tiếng sân si; nhưng cũng còn dùng thẳng với nàng, nên phải kiếm lời chối ngược chối xuôi, rằng đó là lời đồn huyển. Tuy là chàng kiếm lời mà chối sướt cho qua; nhưng mà từ đó hai đàng đã sanh ác cảm rồi. Bỡi vậy cho nên Cẩm-Lệ về nhà càng nhớ tới chừng nào, thì lại càng oán hận Lê-xuân-Kỳ chừng nấy. Nàng nhơn đó mà nhớ lại cái đều tàn nhẫn của bợm-ta xúi mình âm mưu hảm hại, làm cho Hoàng-hữu-Chí phải bị giam từ ấy đến nay, thì cái lương-tâm của nàng lại càng hối hận vô cùng. Ngặt vì việc đã lỡ ra rồi, nên phải ôm ấp trong lòng, cũng chẳng dám nói ra cho ai biết.
Ngày giờ thấm thoát, Tòa Đại-hình hội xử đã gần kỳ. Cẩm-Lệ với Lê-xuân-Kỳ, Hương-quản, một tên lính tuần và tám tên dân làng thảy đều được trát Tòa đòi, đến ngày mười tám tháng mười tây, bảy giờ ban mai, phải tựu đến Tòa Đại-hình Saigon mà hầu về vụ xử Hoàng-hữu-Chí.
Lật bật đến ngày mười bảy, nội bọn đều quá giang xe ô-tô đưa bộ-hành đặng đi Saigon.
Khi bọn ấy lên xe vừa mới ngồi yên; bỗng thấy Xuân-Lan ở đâu cũng lơn tơn xách dù lên xe lựa chỗ ngồi ngang đối diện với Lê-xuân-Kỳ, đặng cố ý trừng liếc trêu bẹo mà khêu gan Cẩm-Lệ.
(Nguyên Cẩm-Lệ đã có lòng ghen sẵn, nay thấy tình-cảnh như vầy thì gan dạ nào mà chẳng nổi tam bành; ngặt bỡi trên xe vì có nhiều người, phần thì mình với Lê-xuân-Kỳ cũng không phải là thật vợ chồng, cho nên nàng-ta cảm nộ bất cảm ngôn; chỉ cứ háy nguýt nhúng trề mà chịu trận.
Khi xe đến Saigon rồi, Xuân-Lan liền kêu xe kéo bước lên, lại còn làm bộ nháy nhó Lê-xuân-Kỳ, dường như chĩ chỗ ở của mình mà dặn Lê-xuân-kỳ lại đó vậy; nàng cứ cố ý khêu gan Cẩm-Lệ cho thật nổi ôn, rồi mới hối xe kéo bảo đi, chỉ đường cho nó kéo lại nhà chị em bạn học của mình mà nghỉ đỡ một đêm, đặng mai sớm lên Tòa rồi sẽ ra tay thủ đoạn.
Thật báo hại cho Lê-xuân-Kỳ, hên lâu mới xuống Saigon, mà trọn một đêm ấy ngụ tại nhà Nam-Việt khách-lầu ở nơi đường Kinh-lấp, bị Cẩm-Lệ nổi ghen, cứ theo cằn nhằn mãi, lại thêm ràng rịt, theo giữ khít ghim, không đi đâu được hết.
Còn bà Phủ Ân việc thì việc của ai, mà tội nghiệp cho bà, khi nghe được tin ấy thì trong lòng bà hồi hộp, lo sợ chẳng cùng; không biết Hoàng-hữu-Chí sẽ được tha chăng; hay là bị kêu án ít hay nhiều, lâu hay mau, lo tới lo lui, lấy làm rối trí. Liền kêu Thu-Cúc, hối sửa san hành-lý cho sẵn sàng, rồi mướn một cái ô-tô, dặn Sốp-phơ sáng mai chừng lối ba giờ khuya, đem xe lại cho đúng giờ, đặng hai mẹ con bà đi xuống Saigon mà coi Tòa xử.
Sớm mai ngày mười tám, trong khoản từ sáu giờ rưởi cho tới bảy giờ, thiên hạ ồ ào, tựu đến trước cữa Tòa đặng chờ cho tới giờ mà coi xử; kẻ thì vì chồng, hoặc vì cha, người thì vì con, hoặc vì em vì cháu mà nô nứt trước cữa Tòa đông quá đổi đông, lủ bảy đoàn ba, rất nên náo nhiệt. Còn các quan Thầy-kiện thì hoặc ba ông một chòm, hoặc hai ông một cặp, đi tới đi lui, chuyện vãn cùng nhau mà chờ giờ xử.
Lúc ấy hai mẹ con bà Phủ còn ngồi trên ô-tô, đậu trước cữa Tòa; duy có bọn Cẩm-Lệ với Lê-xuân-Kỳ thì ngồi tại chỗ ghế xanh (banc) mà nghỉ cẳn. Còn một mình Xuân-Lan đã đến trước bao giờ, thấy bọn ấy ngồi tại ghế xanh, bèn làm bộ nháy nhó Lê-xuân-Kỳ, rồi cứ đi qua đi lại trước mặt Cẩm-Lệ, tay thì cầm chiếc nhẩn đưa lên đưa xuống mà coi, còn tay thì rút khăn mu-soa ra, làm bộ chùi lau cái hột xoàn cho sáng. Cẩm-Lệ xem thấy phát nghi, liền vói kéo bàn tay của Lê-xuân-Kỳ lên mà coi, không thấy đeo chiếc nhẫn. Máu ghen muốn trào, tay chơn run rẩy, liền hỏi một cách rất gắt gao rằng: « Vậy chớ chiếc nhẩn ở đâu? Xuống tới Saigon là chốn kinh-thành sao không đeo lại cất?? » Lê-xuân-Kỳ kiếm chuyện dấu quanh dấu quẩn mà dấu chẳng qua. Còn Xuân-Lan thấy vậy lại càng cứ theo trêu bẹo chiếc nhẩn trước mặt hoài. Cẩm-Lệ đã quả quyết của mình, bèn nổi giận xung thiên, liền chỉ Lê-xuân-Kỳ mà mắng rằng: « Mi là đồ khốn nạn, quả là loài nhơn diện thú tâm, để lát nữa đây rồi mi sẽ coi tao, muốn vậy tao cho vậy. » Lúc bấy giờ, Lê-xuân-Kỳ tưởng Cẩm-Lệ nổi máu ghen mà sanh hổn, lời hâm lát nữa đó là nói để lát nữa hầu Tòa rồi ra đường ắt sẽ chưởi mắng niếu kéo gì đây (Chẳng những là Lê-xuân-Kỳ tưởng vậy, cùng những người đi coi Tòa xử bữa ấy cũng đều tưởng vậy mà thôi! Tưởng khi chư khán-quan, ai đọc truyện nầy mà đọc tới đây, thế tất cũng là tưởng vậy chớ gì!)
Có dè đâu mà lại sẽ có một chuyện hy kỳ, thật rất phi thường, xuất nhơn ý ngoại.
Đúng tám giờ, nghe tiếng chuông reo, hai bên lính tập tra lưỡi-lê vào súng sáng lòa; thật là nghi vệ trên Tòa, ngày xử Đại-hình rất có vẽ oai nghiêm, những kẻ gian-manh xem thấy phải lạnh mình mà kinh hồn oản vía.
Cách chừng năm phút, lại nghe tiếng chuông reo. Thầy Đội hô bọt-tê-ấm vang rân, lính bồng súng lên nghe khua lốp rốp. Nội cả Tòa tự quan chí dân, thảy đều đứng dậy. Kế thấy ba ông quan Tòa áo đỏ bước ra ngồi giữa, bốn ông Hội-đồng thẩm-án ngồi kế hai bên; bên hữu là quan thay mặt cho quan Chưởng-lý đề-hình, bên tả thì quan Lục-sự. Ngay chính giữa có để một cái bàn, ấy là chỗ của một thầy Thông-ngôn với một quan Trưởng-tòa ngồi đó. Phía trước có hai giảy ghế, các quan Thầy-kiện phân ra ngồi hai bên. Còn mấy giảy ghế phía sau, bên tả thì phạm-nhơn, bên hữu thì người đi coi, ngồi chen lấn nhau chật nứt.
Khi ai nấy ngồi xuống lặng trang, xảy nghe thầy Thông cầm sổ hô danh từ người:
Chánh-phạm là Hoàng-hữu-Chí;
Thủ-cáo là Cẩm-Lệ;
Chứng là: Lê-xuân-Kỳ, Hương-quản, tên lính X. và tám tên dân làng, đều có đến hầu đủ mặt.
Kêu tên nội vụ xong rồi, Tòa liền dạy kêu chánh-phạm là Hoàng-hữu-Chí lên mà hỏi rằng: « Vậy chớ lời của chú khai tại phòng quan Bồi-thẩm đó có quả y như vậy chăng? Chú còn kêu nài gì nữa chăng?
Hoàng-hữu-Chí bẩm rằng: « Nội lời của tôi khai nơi phòng quan Bồi-thẩm là đủ việc của tôi, thật tôi chẳng còn kêu nài đều chi nữa hết; tôi chỉ xin quan lớn lấy lẽ công bình mà minh đoán cho tôi nhờ đó thôi. »
Quan Tòa liền dạy kêu thủ-cáo là Cẩm-Lệ lên mà hỏi.
Cẩm-Lệ ra đứng giữa Tòa mà hơi giận còn lừng, liền bước tới quì lạy quan Tòa mà bẩm rằng: « Bẩm lạy quan lớn, (và nói và chỉ tạc mặc Lê-xuân-Kỳ), vụ nầy đầu dây mối nhợ cũng tại thằng khốn nạn Lê-xuân-Kỳ nầy, nó đồ mưu thiết kế mà hảm hại người ngay; nó lại xúi giục tôi làm đều tàn nhẫn, táng tận thiên lương, phao vu cho người vô cô mà thọ khuất. Nay ra đến giữa Tòa rồi, thật cái lương-tâm của tôi nó cắn rứt, xốn xang khó chịu, nên tôi phải tỏ thật hết cho quan lớn nghe. » Rồi đó nàng bèn đọc hết, ba bảy hai mươi mốt, đầu đuôi gốc ngọn, nhứt nhứt mỗi việc khai rõ hết một hồi, rồi lại lạy quan Tòa mà nói rằng: « Lời thật tình tôi đã khai hết giữa Tòa, ngữa nhờ lượng quan trên, dầu giết dầu tha, tôi cũng cam bụng chịu. » Cẩm-Lệ khai dứt lời thì nội cả Tòa, tự quan chí dân, ai nấy đều sửng sốt. Quan Tòa liền dạy đòi Hoàng-hữu-Chí lên mà hỏi lại.
Hoàng-hữu-Chí bước lên cúi đầu chào bái các quan Tòa rồi bẩm rằng: « Những lời của cô Cẩm-Lệ khai giữa Tòa nảy giờ đó đều thật quả y như vậy, tôi chẳng có lời nào mà còn kêu nài chi hơn nữa, cúi xin quan lớn minh đoán cho tôi nhờ. » Lúc ấy các quan xem thấy Hoàng-hữu-Chí đương ở nơi một cái địa-vị rất khốn cùng, áo quần xơ xải mà mặt mày đầy đặn, diện mạo đáng thương; lại thêm lời nói rất chơn thành, thật rõ ràng là người trung hậu, bực hiền lương, bị phao vu nên nỗi. Liền dạy chàng lui xuống ngồi chờ, để hỏi hết chứng cớ xong rồi sẽ xử.
Đòi Lê-xuân-Kỳ lên đứng giữa Tòa, tuy là mặt một bộ đồ u-hoe hàng tít-so thẳng thớm, chơn mang giày ăn phón láng đen, thì mặt dầu; mà mặc dài cằm nhọn, gia dĩ trống ngực đánh lia, mặt mày tái ngắt (vì bợm-ta nghe lời khai của Cẩm-Lệ thì biết gian mưu bại lộ, nên sợ thất thanh. tài nào mà mặt mày không tái ngắt). Cho nên lúc nầy dầu mà bợm ta có cái lưỡi bén tợ gươm trường, miệng xuôi như suối chảy đi nữa, cũng khó đem ra mà dùng được; nên đứng nói lớ quớ một hồi, chừng rốt cuộc rồi cũng phải tàng đầu lộ vĩ[18].
Quan Tòa dạy bợm ta lui xuống, rồi đòi hết mấy tên chứng là Hương-quản, lính X. và tám tên dân làng lên mà hỏi.
Ban đầu chúng nó còn chối cải, mà ba mươi đời cái thứ gian, dẩu có cượng cầu mà chối cải thế nào, cũng chẳng cượng qua cho khỏi lý. Bỡi vậy cho nên, chừng rốt cuộc rồi chúng nó bị quan Tòa chận nghẹt nên phải khai thật rằng: « Ngày...... tháng....... có thầy Thông Lê-xuân-Kỳ ngồi tại nhà Hương-quản-mỗ, lại cũng có tên lính X. tại đó, kêu anh em tôi lại mà mướn mỗi người là hai đồng bạc, dặn chúng tôi từ mười giờ tới mười hai giờ khuya ngày ấy, phải ở gần lối đó; hễ nghe cô Cẩm-Lệ la làng thì áp vào mà bắt thầy Hoàng-hữu-Chí. Thầy Kỳ lại còn hứa với chúng tôi rằng ngày nào Tòa xử xong, kêu án thầy Giáo-Chí rồi thì thẩy sẽ cho thêm anh em tôi mỗi người là năm đồng nữa. Lúc ấy chúng tôi cũng thấy thẩy đưa bạc cho Hương-quản-mỗ và tên lính X. nữa, song cái số bao nhiêu thì chúng tôi không thấy rõ; ấy là lời thật khai ngay, xin quan lớn châm chế cho chúng tôi nhờ. »
Quan Tòa liền dạy chúng nó lui xuống. Kế đó quan Thầy-kiện liền ra đứng giữa mà biện giải sơ sịa vài lời, tỏ ý xin quan Tòa tha Hoàng-hữu-Chí là người vô tội, và xin buộc Lê-xuân-Kỳ, Cẩm-Lệ và nội bọn về tội phao vu cho người lương thiện.
Đâu đó xong rồi, quan thay mặt cho quan Chưởng-lý bèn đứng dậy mà tuyên bố giữa công chúng rằng: « Vã Tòa là chỗ cầm cân tội phước, ấy là chỗ chí công chí chánh, cầm mực công bình mà thưởng thiện phạt ác. Hoàng-hữu-Chí là người lương thiện, bị phao vu mà chức phận phải hư, danh giá phải hỏng. Nay tôi xin Tòa hãy lấy đều công lý, mở lượng nhơn từ, tha bổng và phục hồi cựu chức cho chàng mà thưởng người vô tội. Còn Cẩm-Lệ với Lê-xuân-Kỳ và nội bọn, thảy đều đồng ác tương tế mà hảm hại người lành, ấy cũng đồng tội liên cang, nên tôi cũng xin Tòa bắt hết giam tra rồi luận tội mà phạt chúng nó một cách cho nặng nề, đặng để làm gương cho kẻ khác. »
Ngài nói dứt lời rồi, các quan Tòa liền bải hội, hiệp với các quan Hội-đồng thẩm-án, lui vào phòng thẩm mà nghị án.
Ngoài nầy thiên hạ xôn xao, kẻ nói vầy người nói khác, ai ai cũng cho là một việc rất phi thường, thật là kim-cổ-kỳ-quang, thuở nay chưa từng thấy.
Lúc nầy hai mẹ con bà Phủ mừng rở vô cùng, song trong lòng cũng còn hởi phập phồng, chưa biết sao mà dám chắc. Kế thấy quan Thầy-kiện của bà bước lại nói cho bà biết rằng chắc là Tòa sẽ tha bổng Hoàng-hữu-Chí. Chừng ấy bà mới thật mừng, song cũng còn nhóng trông coi Tòa xử về bọn Cẩm-Lệ lẽ nào cho rõ.
Duy có cô Xuân-Lan, trong lòng khấp khởi mừng thầm, song còn chưa dám nói cho ai biết được.
Một chặp lại nghe chuông đổ, ai nấy đều trở vào đặng nghe lịnh Tòa xử đoán lẽ nào cho biết.
Các quan đều ra ngồi y chỗ cũ. Quan Tòa liền đọc án một hồi. Kế thầy thông ra đứng giữa Tòa mà tuyên bố lên rằng: « Nay Tòa xét vì Hoàng-hữu-Chí là người vô tội mà bị hàm oan, nên dạy tha bổng cho thầy và phục hồi cựu chức.
Còn Cẩm-Lệ với Lê-xuân-Kỳ và nội bọn đều phải giam lại mà chờ tra hỏi cho phân minh, rồi sau sẽ xử.
Liền nội hồi đó, lính Sơn-đầm dẫn hết nội bọn đem giam vào khám.
Lúc nầy bà Phủ mừng rở vô cùng, song bà lấy làm lạ quá, không hiểu tại sao mà Cẩm-Lệ lại trở lòng với Lê-xuân-Kỳ mà khai thật hết ra như vậy. Chừng đó Thu-Cúc mới mỉn cười và thuật hết lại cho bà nghe rằng: « Con xin lỗi cùng má, nguyên đó là tại chị em con rõ biết được Cẩm-Lệ và Lê-xuân-Kỳ đã tư tình với nhau, Cẩm-Lệ lại có cho Lê-xuân-Kỳ một chiếc nhẩn, nên em con phải liều danh-giá dụng trí gạt Lê-xuân-Kỳ mà lấy cho được chiếc nhẩn ấy. Rồi cứ làm màu bởn trợn trừng liếc với Lê-xuân-Kỳ trước mặt Cẩm-Lệ mãi cho nó đổ ghen ra; mà hễ nó dò ghen ra rồi thì thế nào chúng nó cũng phải sanh ác cảm; chừng ấy nó mới oán hận nhau. Rồi mình lại thừa dịp ấy chờ đến bữa nay, lúc Tòa gần xử, lại đem chiếc nhẩn của nó đã cho tình-nhân nó, mà tình-nhân nó lại đem mà cho người thương khác; trêu bẹo ra trước mắt nó cho nó ngó thấy rồi làm như tuồng khinh khi kiêu hảnh, thị nó như không không vậy; thế thì cái ghen, cái tức, cái oán, cái cừu nầy, dầu giết được nó cũng giết mà không gớm thay; huống chi là đến Tòa mà khai thật cho Lê-xuân-Kỳ ở tù cho lại gan, cho bỏ ghét thì có khó chi mà không dám. Nay chúng nó đã trúng kế của chị em con rồi, lại cứu được thầy Hoàng-hữu-Chí rồi; nên con phải chịu lỗi cùng mà về tội chị em con đã dấu nhẹm mà không cho má hay, xin má dung thứ cho chị em con nhờ. » Bà Phủ nghe nói ngơ ngẩn hồi lâu, lại thấy Xuân-Lan đang đứng xa xa ngó lại, chúm chím miệng cười. Bà liền giơ tay lên ngoắt lia ngoắt lịa và kêu rằng: « Xuân-Lan! Lại đây con. » Xuân-Lan nghe kêu chạy lại cúi đầu, bà liền vói xuống kéo đại lên xe vò lia vò lịa, rồi rưng rưng nước mắt mà nói rằng: « Thật chị em con tệ quá! Có vậy thì cho má hay, đễ chi cho má không biết mà giận con, mắng nhiếc đuổi xua làm cho thân con tất tưởi, ở đậu ở hạt với người ta tự hỏm tới nay, tội nghiệp thì thôi đa. » Rồi bà lại cười và lau nước mắt mà nói nữa rằng: « Trời ơi, mẹ có dè đâu mà chị em con tuổi mới có bây lớn mà khon ngoan lanh lợi, mưu trí quá Khổng-Minh như vầy. Thôi, kêu thầy Giáo, dặn thẩy lấy giấy tờ rồi lên xe đây mà về với mẹ con mình luôn thể con. »
Lúc bấy giờ, thiên hạ đều đồn chuyền với nhau rằng: « Có hai cô con gái của bà Phủ lối 17, 18 tuổi gì đó mà thông minh quá, lại thêm mưu trí cao sâu, biết dụng kế mà cứu người ngay cho khỏi họa. Vì vậy ai ai cũng muốn tranh nhau xúm coi cho biết hai chị em cô ấy ra thể nào mà khôn ngoan như vậy. Ôi thôi! Ban đầu còn ít, sau xít ra đông, đứng vây chung quanh, làm cho xe của bà không cục cựa gì được hết.
Lúc đang lộn xộn, bỗng thấy thằng bồi của ông Phán-Ngãi, sai lên kiếm bà mà báo tin lành cho bà hay rằng ông Phán mới được dây thép của Phan, Nguyễn hai ông đánh về cho hay rằng đã xuống chiếc tàu Orénoque mà trở về Saigon, nay đã tới Tourane (Cữa hàng) rồi, còn hai ngày nữa sẽ tới Saigon, dây thép ấy ở Tourane đánh lại.
Vừa được tin nầy, ôi thôi! Hai chị em Thu-Cúc mừng rở xiết bao. Thật là: Mừng nầy còn có mừng nào cho hơn!
Còn đang mừng rở, nói nói cười cười, kế thấy Hoàng-hữu-Chí đã lãnh giấy rồi trở ra, bước thẳng đến trước xe mà xá bà Phủ với hai cô con, rồi dùng lời trung hậu mà tạ ơn bà với chị em cô Thu-Cúc. Rồi đó bà liền mời Hoàng-hữu-Chí lên xe ngồi bên cạnh Sốp-phơ, rồi bà dạy Sốp-phơ chạy lên đường Thuận-kiều ghé nhà ông Phán-Ngãi.
Vào nhà còn đang mừng rở chuyện trò, kẻ hỏi thăm việc nầy người hỏi thăm việc khác. Bỗng đâu lại thấy một người Phắt-tơ ngoài cữa bước vào đem lại một cái dây thép nữa. Ông Phán ký tên lãnh rồi mở ra coi, té ra là của một ông bạn ở Bạcliêu đánh lên cho ông hay rằng chiều bữa ấy chuyến xe lửa chót bà Huyện sẽ lên tới Saigon. Ôi! Đều đâu cũng lạ, mừng lại dập dồn.
Nực cười Con-Tạo lá lay,
Khi tan, khi hiệp, rất dày công phu!
Mới được tin cha, lại ra thêm tin mẹ. Hai chị em Thu-Cúc mừng quýnh mừng quíu, mừng quá đổi mừng; bèn thưa với mẹ nuôi, xin nán lại đến chiều đặng đón rước bà thân-sanh lão-mẫu. Bà Phủ cũng vui lòng mà nói rằng: « À phải đa con, vậy để chiều nay ba mẹ con mình ra ga rước chị rồi sẽ về Tây-ninh, kẻo bỏ nhà không có ai coi; rồi sáng mốt hai chị em con sẽ trở xuống mà đón anh với anh Phan cũng được. »
Chiều bữa ấy lối sáu giờ rưởi, Hoàng-hữu-Chí mắt đi thăm anh em, còn bà Phủ với chị em Thu-Cúc đem ô-tô ra ga mà đón bà Huyện. Khi xe lửa về tới ga, bà Huyện trên xe bước xuống, thình lình sao lại thấy hai đứa con gái mình đây, vòng vàng chuổi hột nhởn nhơ, nét mặt tươi cười đứng với một bà nào lạ mặt; bà ngở là trong giấc chiêm bao, bà đương nhìn sửng, chưa biết nói làm sao. Kế nghe hai cô ấy miệng kêu má, má; chơn chạy lại gần, bà cứ nhìn trân, thật bà không biết ai xui ai khiến mà được như vầy, khóc lỡ khóc, mà cười cũng lỡ cười; không nói chi được hết. Hai chị em Thu-Cúc liền nắm tay mẹ dắc lại gần chĩ bà Phủ mà thuật sơ các việc cho mẹ mình nghe. Chừng ấy hai bà mới biết nhau, chuyện trò mừng rở, bà Huyện rất cảm tình bà Phủ có lòng nhân hậu mà chiếu cố hai trẻ từ ấy đến nay. Rồi đó bà Phủ liền hối Sốp-phơ quày xe trở về nhà ông Phán. Hoàng-hữu-Chí thấy xe về tới, cũng vội vã chạy ra chào mừng bà Huyện, rồi hiệp lại một đoàn, từ giã vợ chồng ông Phán trở về Tây-ninh, qua mười hai giờ khuya mới tới.
Sáng ra bữa sau, Thu-Cúc xem nhựt-báo, thấy có đăng một khoản nói rằng Hội-xổ-số đã xổ rồi, bao nhiêu số trúng cũng có đăng trong tờ báo ấy. Thu-Cúc liền kêu Xuân-Lan, bảo mở rương lấy số của mình mua, đem ra dò thử coi trúng trậc. Ai ngờ là:
Khi nên trời cũng chìu người!
Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai.
Cho nên khi Thu-Cúc vừa dở số ra mà dò, thì thấy số của mình được trúng độc đắc là một vạn đồng; chị em đều mừng rở, bà Phủ với bà Huyện cũng mừng. Thật là cuộc đời dời đổi, thiên địa tuần huờn, hết thạnh tới suy, suy rồi lại thạnh.
Qua bữa sau Thu-Cúc với Xuân-Lan bèn thưa cho hai bà mẹ hay, rồi mướn một cái xe ô-tô đi xuống Saigon, trước là đón tàu rước cha, sau là đến nhà Băng mà lãnh tiền trúng số.
Khi xe xuống tới Saigon rồi cũng cứ ghé nhà ông Phán Ngãi. Ông bèn nói cho chị em Thu-Cúc hay rằng: « Nầy hai cháu, hôm nay sẽ có tới hai chiếc tàu lớn đến một lược, chiếc Porthos thì ở bên Tây qua, còn chiếc Orénoque thì ở Bắc-kỳ lại; cả hai cũng đều vào tới Cap (Vũng-Tàu), đã báo tin rồi, chiều nay đúng một giờ, có khi hai chiếc cũng vào tới Saigon một lượt. Vậy nếu hai cháu có đi đón anh Huyện thì phải coi chừng cái danh hiệu chiếc tàu kẻo lộn, phải đón chiếc Orénoque thì mới khỏi lầm; mà hay hơn là cho chú đi với cho vui. » Hai chị em nghe nói rất mừng, bèn nhơn lúc tàu chưa tới bến, đi trước xuống nhà Băng lãnh tiền trúng số cho xong, rồi trở về nhà ông Phán nghỉ ngơi mà chờ tàu tới.
Gần một giờ chiều, hai chị em bèn sửa soạn, rồi hiệp với ông Phán lên xe ô-tô chạy qua hảng nhà Rồng, kiếm chỗ đậu xe mà đợi. Lúc bấy giờ, tại bến tàu thiên hạ lao xao, kẻ đón rước anh em, người đón cha mẹ bà con, chẳng biết số nào mà kể cho xiết được.
Còn đang mơ ước ngóng trông, bỗng thấy xa xa, nơi ngoài mấy khúc quanh, khói tỏa đen sì, ấy là khói tàu đò đã vào gần tới bến; những khách trên cầu, lại lại qua qua, kẻ ngóng tàu bên Tây, người trông tàu ngoài Bắc.
Một lát đã thấy hai chiếc tàu ló mũi, chiếc trước chiếc sau, hai chiếc nối nhau, riu ríu dựa vào cầu rất nên êm ái.
Hai chị em Thu-Cúc và ông Phán-Ngãi đứng ngó lên tàu, thấy quan Huyện với Phan-công, hai ông đứng kế nhau, thì mừng vui chẳng xiết. Còn trên tàu quan Huyện trông xuống thấy hai đứa con, trong lòng ông cũng vô cùng hớn hở.
Khi tàu ghé yên rồi, hai ông xách hoa-ly dắc nhau xuống cầu, bắt tay ông Phán chào mừng, rồi quay lại vuốt ve hai con, lòng mừng khấp khởi; song vì chỗ đông người, nên không lẽ hỏi qua gia-sự. Cha con còn đương mừng rở, chưa kịp nói chi; bỗng nghe ông Phan-mẩn-Đạt nói lớn lên rằng: « Ủa! Cơ khổ!! Thằng Chấn của tôi nó cũng về tới kia cà! » Và nói và chỉ bên chiếc tàu Porthos. Ai nấy cũng ngó theo, thấy trên chiếc tàu ấy có một người trai tơ tắn, diện mạo khôi ngô, hình dung tuấn nhã; đứng ngó Phan-công một hồi rồi cũng kêu rằng: « Ủa cha! Con đã về tới đây nầy cha. » Ôi! Tạo-hóa khéo xui, tình cờ mà gặp, bên nầy một cặp, bên ấy ba người, cha cha con con, nói nói cười cười; thật cái sự vui mừng nầy, ký-giả không có tài nào mà tả ra cho rõ được.
Còn Phan-quốc-Chấn với Thu-Cúc mà thấy nhau đây, ký-giả chẳng cần tả ra, chớ khán-quan cũng cháng rõ rằng:
Người quốc-sắc, kẻ thiên-tài;
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
Rồi đó, hai người cha, ba người con và một ông bạn, liền đề huề dắc nhau lên ô-tô, chạy về nhà ông Phán, Thu-Cúc bèn đem hết đầu đuôi các việc của chị em mình và bà Phủ mà thuật rõ lại cho quan Huyện nghe. Phan-quốc-Chấn cũng đem việc bà Phủ gởi mười hai ngàn quan tiền tây mà giúp thêm học-phí cho mình, nhờ có tấm lòng hào-hiệp của bà nên mới được công thành danh toại; đầu đuôi gốc ngọn thuật hết một hồi. Phan, Nguyễn hai ông nghe nói cũng ngùi ngùi, hết sức cám ơn bà Phủ.
Chuyện trò mừng rở một hồi, rồi mới đứng dậy giã từ ông Phán mà lên xe, bảo Sốp-phơ chạy thẳng lên trường Nguyễn-phan-Long ghé vào xin phép và rước luôn Trọng-Liêm về chơi ít bữa. Quan Huyện cám cảnh vô cùng, ông càng thấy mấy đứa con của ông đã được bà Phủ châu toàn tử tế chừng nào thì ông lại càng cảm tình bà Phủ chừng nấy. Rước Trọng-Liêm rồi liền hối Sốp-phơ chạy thẳng về Tây-ninh.
Đây xin nhắc sơ lại việc Hoàng-hữu-Chí, ban đầu thì chàng nhứt định, chẳng thèm cưới con gái nhà giàu; sau vì mắc nạn mà phải thọ ơn bà Phủ, cám nghĩa Xuân-Lan, chừng ấy mới biết trong đám con gái nhà giàu, cũng có kẻ vầy người khác. Lại thêm thấy Phan-quốc-Chấn là bạn thiết của mình, cũng là rể nhà bà; nên chàng cũng vui lòng vào đó mà chèo xuôi cho mát mái.
Ngày ấy Hoàng-hữu-Chí cũng ở tại nhà bà Phủ mà chờ tin. Thoạt nghe tiếng kèn ô-tô, cả nhà đều mừng rở, rủ nhau ra trước ngỏ ngóng trông. Xe vừa ngừng bánh, ôi thôi! Kẻ dưới đất, người trên xe, nói nói cười cười, mừng nhau chi xiết.
Khi vào nhà ai nấy đều ngồi yên, Phan-quốc-Chấn và Hoàng-hữu-Chí liền bước ra tạ ơn bà Phủ. Bà cười và dạy hai trẻ ngồi, rồi day qua nói với Phan-công và vợ chồng quan Huyện rằng: « Ơn trời phò hộ, phụ tử đoàn viên; vậy thì ngày nay việc hôn-nhơn của trẻ, cũng nên sớm liệu cho rồi; vã lại cặp lớn đó thì vốn của hai anh định trước, còn cặp nhỏ nầy[19] là của tôi mới định sau đây; vậy xin anh chị liệu tính lẽ nào, cho trẻ con nó nhờ phước. » Quan Huyện bèn đáp rằng: « Cái lòng nhân hậu của chị mà đối với trẻ con, từ xưa đến nay, chẳng có ai được vậy bao giờ, mỗi mỗi chị cũng đều để ý châu-toàn, chẳng hề bỏ qua một mãy; tôi và mẹ nó đây tuy là thân-sanh của chúng nó mặc dầu, chớ cũng không sao bì kịp. Còn mấy chị em chúng nó mà đối với cái ân trọng đức dày của chị đây, thật là thiên cao địa hậu, tái tạo chi ân; thế thì chẳng biết kiếp nào mà chúng nó đền bồi cho được. Huống chi việc hôn-nhơn là việc trọng trong đạo nhân-luân, mà chị định cho bốn trẻ cũng vừa chừng, thì vợ chồng tôi cũng vui lòng, lẽ đâu còn dám cải. Nhưng tôi còn lo một nỗi gia-nghiệp chưa yên; vậy xin để cho tôi trở về cố lý ít ngày, đặng lo thục hồi cựu-nghiệp đâu đó cho xong xuôi, rồi tôi sẽ trở lại đây mà định hôn cho bốn trẻ, cũng chẳng muộn chi, xin chị với anh Phan an dạ. »
Bà Phủ nghe nói rất vui lòng, mà thật bà rất vui lòng hơn hết. Nghĩ vì bà giúp đâu nên đó, kết quả được nhiều việc rất hay, giúp họ Phan thì họ Phan đã thành danh, mà cứu họ Hoàng thì họ Hoàng lại khỏi nạn; ấy rõ ràng là: Chưởng qua huờn đắc qua, chưởng đậu huờn đắc đậu. Một nhà phước hậu, kiết-triệu tới liền liền, ấy cũng vì lòng nhân-hậu của bà thật là vô lượng vô biên; nên bà mới được hưởng vô cùng hạnh-phước.
Từ đây cha con, chồng vợ, bậu bạn, chị em, một cữa sum vầy, ngàn năm phước ấm.
CHUNG
- ▲ Nội Nam-kỳ chỉ có hòn núi nầy là cao hơn hết, bề cao đến 884 thước tây, ở về tĩnh Tây-ninh, cách tĩnh thành chừng 10 ngàn thước. Trên núi có một cảnh chùa Bà. Thánh-hiệu của Bà gọi là Bà Đen, cho nên người ta cũng gọi núi nầy là núi Điện-Bà hay là núi Chơn-Bà-Đen. Tục truyền rằng Bà linh lắm, cho nên người ở trong tĩnh Tây-ninh đều cữ tên Bà, chẳng hề dám nói tới tiếng đen; hễ màu đen thì gọi là màu thâm, như vải đen thì kêu là vải thâm vân vân......
- ▲ Sương-phụ là đờn-bà góa (vá).
- ▲ Làm quan mà chết gọi là mất lộc.
- ▲ Nhơn-tình bạc-bẻo mỏng-mẻo như giấy;
Thế-sự đổi dời chẳng khác cuộc cờ. - ▲ Dĩ-lợi-giao, là tính làm bạn với ai mà có lợi cho mình thì mới kết bạn.
- ▲ Ngồi nói chuyện với mình mà hay dùng những lời trung-hậu thiền-đốc; thì người ấy có quả thật là quân-tử chăng? Hay là người làm bộ dối-giả bề ngoài (Hypocrite) chăng?
- ▲ Điểu thú là khác loại, chẳng nên chung lộn với chúng nó, thì đã đành rồi; chớ còn bọn nầy dầu gì nó cũng là loài người. Nếu ta chẳng cùng với nó thì cùng với ai bây giờ? (Ấy là lời của đức Khổng-Phu-Tử nói với học-trò của ngài là thầy Tử-Lộ).
- ▲ Minh-linh là con nuôi.
- ▲ Tùy-Hà là Sứ của vua Hớn-Cao-Tổ, cái văn nói rất có tài.
- ▲ Phắc-tơ là người đi thơ.
- ▲ Cạt-nê là cuốn sổ nhỏ để ký tên mà lảnh thơ có bảo-kiết.
- ▲ Chẳng sợ cọp sanh ba cái miệng, chỉnh sợ người ở hai lòng.
- ▲ Đem cái thói khinh bạc mà đối với người quân-tử ắt mất đước của ta; đối với kẻ tiểu-nhân ắt giết thân ta.
- ▲ Mưu chẳng nên đông; vì mưu mà tính với nhiều người e không kín nhẹm.
- ▲ Cát-ái, là cắt cục yêu ra.
- ▲ Sở nguyện đặng thành; là ý va ước trông cho Tòa kêu án Hoàng-hữu-Chí.
- ▲ Đã từng qua biển Thương-hải rồi thì chẳng còn cho nước ở biển nào là nước.— Đã lên đến núi Vu-san rồi thì chẳng có thấy mây nào mà phải là mây. Nghĩa là Lê-xuân-Kỳ thấy cái vẽ đẹp của Xuân-Lan rồi, thì chẳng còn biết ai là đẹp hơn nàng nữa được.
- ▲ Dấu đầu lòi đuôi.
- ▲ Cặp lớn là chĩ Phan-quốc-Chấn với Thu-Cúc mà nói. Còn cặp nhỏ là chĩ Hoàng-hữu-Chí với Xuân-Lan mà nói.
Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng ở Hoa Kỳ vì nó được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929.
Tác giả mất năm 1947, do đó tác phẩm này cũng thuộc phạm vi công cộng tại các quốc gia và vùng lãnh thổ có thời hạn bảo hộ bản quyền là cuộc đời tác giả và 75 năm sau khi tác giả mất hoặc ngắn hơn. Tác phẩm này có thể cũng thuộc phạm vi công cộng ở các quốc gia và vùng lãnh thổ có thời hạn bảo hộ bản quyền dài hơn nhưng áp dụng luật thời hạn ngắn hơn đối với các tác phẩm nước ngoài.