Kẻ sĩ
của Nguyễn Công Trứ

Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt,
爵 有 五 士 居 其 列
Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên[1].
民 有 四 士 爲 之 先
Có giang-sơn thì sĩ đã có tên;
Từ Chu Hán vốnnay là quí.
Miền hương-đảng đã khen rằng hiếu nghị,
Đạo lập-thân giữ lấy cương-thường,
Khí hạo-nhiên chí đại chí cương;
So chính-khí đã đầy trong trời đất,
Lúc vị-ngộ, hối tàng nơi bồng-tất,
Hiêu-hiêu nhiên điếu Vị[2], canh Sằn[3].
Xe bồ-luân[4] dầu chưa gặp Thang, Văn,
Phù thế-giáo một vài câu thanh-nghị.
Cầm chính đạo để tịch tà cự bí,
Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên.
Rồng mây khi gặp hội ưa duyên,
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng.
Trong lang-miếu ra tài lương-đống,
Ngoài biên-thùy rạch mũi can-tương.
Làm sao cho bách thế lưu phương,
Trước là sĩ, sau là khanh tướng.
Kinh-luân khởi tâm thượng, binh-giáp tàng hung trung;
經 綸 起 心 上 兵 甲 胸 中
Vũ trụ chi gian giai phận sự, nam nhi đáo thử thị hào hùng.
宇 宙 之 皆 分 事 男 兒 到 此 是 豪 雄
Nhà nước yên mà được thung-dung.
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng-Thạch[5],
Năm ba chú tiểu đồng lếch-thếch,
Tiêu-dao nơi hàn cốc thanh-sơn.
Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn.
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới,
Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh.
Này này sĩ mới hoàn danh.

   




Chú thích

  1. Tước có năm bậc, Sĩ cũng dự vào/ Dân có 4 loại Sĩ đứng đầu
  2. Điển tích Lã Vọng xưa ngồi câu cá bên bờ sông Vị
  3. Điển tích Y Doãn xưa kia làm ruộng ở đất Sằn
  4. Xe nhà vua dùng để rước người hiền tài giúp nước
  5. Điển tích Hoàng Thạch công: Trương Lương cuối đời Tần đi chơi đất Hạ Bì đến Dĩ Kiều gặp ông già trao cho quyển Binh thư tam lược để bình thiên hạ, rồi dặn sau 13 năm đến núi Cốc gặp hòn đá vàng chính là ông ấy. Trương Lương là tướng của Lưu Bang bình thiên hạ lập nhà Hán