II Sa-mu-ên của không rõ, do Phan Khôi dịch
Đoạn 23

Bài ca chót của Đa-vít

231 Nầy là lời sau hết của Đa-vít.

Nầy lời của Đa-vít, con trai Y-sai,
Tức lời của người đã được nâng lên cao thay,
Đấng chịu xức dầu của Đức Chúa Trời Gia-cốp,
Và làm kẻ hát êm-dịu của Y-sơ-ra-ên.
2 Thần của Đức Giê-hô-va đã cậy miệng ta mà phán,
Và lời của Ngài ở nơi lưỡi miệng ta.
3 Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán,
Hòn Đá lớn của Y-sơ-ra-ên đã phán cùng ta rằng:
Người nào cai-trị loài người cách công-bình,
Cách kính-sợ Đức Chúa Trời,
4 Thì sẽ giống như sự chói-lòa buổi sáng, khi mặt trời mọc,
Khác nào một buổi sớm mai chẳng có mây;
Các ánh sáng nó làm cho cây cỏ bởi đất nảy ra sau khi mưa.
5 Nhà ta dầu chẳng phải như vậy trước mặt Đức Chúa Trời,
Song Ngài đã lập với ta một giao-ước đời đời,
Vững-bền trong mọi sự và chắc-chắn.
Vì đó là cả sự cứu-rỗi và cả sự ước-ao ta,
Dẫu Ngài không làm cho đều đó nẩy-nở ra.
6 Trái lại, hết thảy kẻ hung-ác đều giống như gai-chông mà người ta liệng ra xa,
Không thể lấy bằng tay được;
7 Người ta phải dùng đồ bằng sắt hay là cán cây lao đặng nắm nó.
Rồi chính tại chỗ, nó bị thiêu trong lửa.

Tên các tướng của đạo-binh Đa-vít

8 Nầy là tên các người mạnh-bạo đã giúp việc cho Đa-vít: Giô-sép-Ba-sê-bết, người Tách-kê-môn, làm đầu lính thị-vệ của vua. Ấy là người quơ giáo mình cự lại tám trăm người, và giết đi trong một lúc gặp.

9 Sau người ấy, có Ê-lê-a-sa, con trai của Đô-đô, cháu của A-cô-hi, là một trong ba người mạnh-bạo đã cùng Đa-vít thách dân Phi-li-tin hiệp lại đặng chiến-trận. 10 Khi dân Y-sơ-ra-ên rút đi, thì Ê-lê-a-sa chổi dậy, đánh dân Phi-li-tin cho đến khi tay người tê dính cứng lại nơi gươm người. Trong ngày đó, Đức Giê-hô-va khiến cho dân Y-sơ-ra-ên được thắng trận cả-thể; chúng chỉ theo sau Ê-lê-a-sa đặng cướp-bóc kẻ thù-nghịch đó thôi.

11 Sau người ấy có Sa-ma, con trai A-ghê, người Ha-ra. Dân Phi-li-tin đã hiệp lại thành đoàn-lũ; ở đó có một đồng gieo đầy đậu, và dân-sự đều chạy trốn khỏi trước mặt dân Phi-li-tin. 12 Nhưng Sa-ma đứng ở giữa ruộng, binh-vực nó, và đánh dân Phi-li-tin. Như vậy, Đức Giê-hô-va khiến cho dân Y-sơ-ra-ên được thắng trận cả-thể.

13 Trong vòng ba mươi quan-tướng, có ba người đi xuống nhằm lúc mùa gặt và đến cùng Đa-vít tại hang-đá A-đu-lam, trong khi một cơ-quân Phi-li-tin đóng trại tại trũng Rê-pha-im. 14 Bấy giờ Đa-vít ở trong đồn, và ở tại Bết-lê-hem có một đạo-binh hờ của dân Phi-li-tin. 15 Đa-vít ao-ước rằng: Chớ chi ta được uống nước bởi giếng ở bên cửa-thành Bết-lê-hem! 46 Bấy giờ, có ba người quan-tướng đầy lòng gan-dạ, xông ngang qua trại-quân Phi-li-tin, múc nước giếng ở bên cửa-thành Bết-lê-hem, rồi đem về dâng cho Đa-vít; nhưng người từ-chối không uống, bèn rảy nước đó ra làm lễ dâng cho Đức Giê-hô-va, 17 mà rằng: Đức Giê-hô-va ôi! tôi hẳn không uống đâu. Nước nầy khác nào huyết của ba người nầy, liều mạng-sống mình đặng đi đến nơi kia. Vậy người không chịu uống. Đó là sự của ba người tướng mạnh-bạo ấy đã làm.

18 A-bi-sai, em Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia, làm tướng của ba người dõng-sĩ; người dùng cây giáo mình đánh chết ba trăm người, và có danh tiếng trong ba người dõng-sĩ ấy. 19 Trong cả ba, A-bi-sai có danh hơn hết, và người làm đầu họ. Dầu vậy, người không bằng ba người kia.

20 Lại có Bê-na-gia ở Cáp-sê-ên, con trai của Giê-hô-gia-đa, là một người mạnh-bạo, nổi tiếng vì các công lớn của mình. Người đã giết hai người Mô-áp mạnh-bạo hơn hết. Trong một ngày tuyết kia, ấy cũng người nầy đi xuống một cái hầm chứa nước, có con sư-tử, và giết nó đi. 21 Lại người cũng đánh giết một người Ê-díp-tô, có bộ-tướng đáng sợ-hãi. Người Ê-díp-tô cầm nơi tay một cây giáo; còn Bê-na-gia cầm một cây gậy xuống đón người. Người rứt cây giáo khỏi tay người Ê-díp-tô, rồi dùng một cây giáo ấy mà giết hắn đi. 22 Đó là công-việc Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa, đã làm; người được nổi tiếng trong ba người tướng gan-dạ kia. Trong bọn ba mươi người, Bê-na-gia có danh tiếng hơn; 23 song không bằng ba người trước. Đa-vít nhận người vào trong bàn mật-nghị mình.

24 A-sa-ên, em Giô-áp, là một người thuộc trong ba mươi người dõng-sĩ kia; cũng có Ên-ca-nan, con trai của Đô-đô, ở Bết-lê-hem; 25 lại có Sa-ma ở Ha-rốt, Ê-li-ca ở Ha-rốt; 26 Hê-lết ở Phê-lết; Y-ra, con trai của Y-ke, ở Tê-cô; 27 A-bi-ê-xe ở A-na-tốt; Mê-bô-nai ở Hu-sa; 28 Sanh-môn ở A-hô-a; Ma-ha-rai ở Nê-tô-pha; 29 Hê-lép, con trai của Ba-a-na ở Nê-tô-pha; Y-tai, con trai của Ri-bai ở Ghi-bê-a, thành của dân Bên-gia-min; 30 Bê-na-gia ở Phi-ra-thôn; Hi-đai ở Na-ha-lê-Ga-ách; 31 A-bi-Anh-bôn ở A-ra-ba; Ách-ma-vét ở Bạt-cum; 32 Ê-li-a-ba ở Sa-bôn; các con trai của Gia-sen, Giô-na-than; 33 Sa-ma ở Ha-ra; A-ki-am, con trai của Sa-ra, người A-ra-rít; 34 Ê-li-phê-lết, con trai của A-cạt-bai, con trai của một người Ma-ca-thít; Ê-li-am, con trai của A-hi-tô-phe ở Ghi-lô; 35 Hết-rai ở Cạt-mên; Pha-rai ở A-ráp; 36 Di-ganh, con trai của Na-than, ở Xô-ba; Ba-ni ở Ga-đi; 37 Xê-léc, người Am-môn, Na-ha-rai ở Bê-ê-rốt, là kẻ vác binh-khí cho Giô-áp, con trai của Xê-ru-gia; 38 Y-ra ở Giê-the; Ga-rép ở Giê-the; 39 U-ri người Hê-tít: cộng là ba mươi bảy người.