II Sử ký/33
Sự thờ tà-thần của Ma-na-se
331 Ma-na-se được mười hai tuổi khi người lên làm vua, và người cai-trị năm mươi lăm năm tại Giê-ru-sa-lem. 2 Người làm đều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, theo những sự gớm-ghiếc của các dân-tộc mà Đức Giê-hô-va đã đuổi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. 3 Người cất lại các nơi cao mà Ê-xê-chia, cha người, đã phá-dỡ, dựng lên những bàn-thờ cho Ba-anh, làm các tượng A-sê-ra, thờ-lạy cả cơ-binh trên trời, và hầu-việc chúng nó. 4 Người xây những bàn-thờ tại trong đền Đức Giê-hô-va, là về nơi ấy mà Đức Giê-hô-va đã phán rằng: Danh ta sẽ ngự nơi Giê-ru-sa-lem đời đời. 5 Người cũng lập những bàn-thờ cho các cơ-binh trên trời, tại trong hai hành-lang của đền Đức Giê-hô-va, 6 và đưa con-cái mình qua lửa, tại trong trũng con Hi-nôm; người xem bói, ếm chú, dùng pháp-thuật, ham theo những kẻ cầu vong và thầy phù-thủy: người làm đều ác thái-quá tại trước mặt Đức Giê-hô-va đặng chọc giận Ngài. 7 Người đặt hình-tượng chạm mà mình đã làm trong đền của Đức Chúa Trời, là về đền ấy mà Đức Chúa Trời có phán với Đa-vít và Sa-lô-môn, con trai người, rằng: Trong đền nầy và tại Giê-ru-sa-lem, thành ta đã chọn trong các chi-phái Y-sơ-ra-ên, ta sẽ đặt danh ta ở đời đời; 8 nếu Y-sơ-ra-ên gìn-giữ làm theo các luật-pháp, điều-răn, và mạng-lịnh, mà ta đã cậy Môi-se phán dạy chúng nó, thì ta sẽ chẳng cất chơn của chúng nó khỏi đất ta đã ban cho tổ-phụ chúng nó. 9 Ma-na-se quyến-dụ Giu-đa và dân-cư Giê-ru-sa-lem, đến đỗi chúng làm đều ác hơn các dân-tộc mà Đức Giê-hô-va đã hủy-diệt khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
Ma-na-se bị dẫn qua Ba-by-lôn. — Người trở về, phá-hủy các hình-tượng. — Người băng-hà
10 Đức Giê-hô-va phán bảo Ma-na-se và dân-sự người; song chúng không chủ ý đến. 11 Vì cớ ấy, Đức Giê-hô-va khiến các quan-tướng đạo-binh của vua A-si-ri đến hãm đánh chúng; các quan ấy bắt đóng cùm Ma-na-se, xiềng người lại, rồi dẫn về Ba-by-lôn.
12 Khi người bị hoạn-nạn, bèn cầu-khẩn Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người và hạ mình xuống lắm trước mặt Đức Chúa Trời của tổ-phụ người. 13 Ma-na-se cầu-nguyện cùng Ngài; Ngài nhậm người, dủ nghe lời nài-xin của người, dẫn người về Giê-ru-sa-lem trong nước người; khi ấy Ma-na-se nhìn biết Giê-hô-va là Đức Chúa Trời.
14 Sau việc ấy, người xây vách ngoài thành Đa-vít, về phía tây Ghi-hôn trong trũng, đến lối vào cửa cá, và chung-quanh Ô-phên, xây nó rất cao; rồi người đặt những quan-tướng trong các thành bền-vững xứ Giu-đa. 15 Người cất khỏi đền Đức Giê-hô-va những thần ngoại-bang, hình-tượng, và bàn-thờ mà người đã xây trên núi của đền Đức Giê-hô-va và tại Giê-ru-sa-lem, rồi quăng nó ra ngoài thành. 16 Đoạn, người sửa-sang bàn-thờ của Đức Giê-hô-va, dâng của-lễ bình-an và của-lễ thù-ân tại đó; người truyền dạy dân Giu-đa phục-sự Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. 17 Dầu vậy, dân-sự còn tế-lễ trên các nơi cao, song chỉ tế-lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình mà thôi.
18 Các công-việc khác của Ma-na-se, lời người cầu-nguyện cùng Đức Chúa Trời người, và các lời của đấng tiên-kiến nhơn danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên mà phán với người, đều đã chép trong sách các vua Y-sơ-ra-ên. 19 Bài cầu-nguyện người, và làm sao Đức Chúa Trời nhậm lời người, các tội-lỗi, và gian-ác người đã phạm, những chỗ người lập nơi cao, dựng lên thần A-sê-ra và tượng chạm, trước khi người chưa hạ mình xuống, kìa, thảy đều chép trong truyện Hô-xai. 20 Ma-na-se an-giấc cùng tổ-phụ mình, được chôn trong cung-điện người; A-môn, con trai người, cai-trị thế cho người.
Sự thờ tà-thần của A-môn.— Người bị giết
21 A-môn được hai mươi hai tuổi khi người lên ngôi làm vua; người cai-trị hai năm tại Giê-ru-sa-lem. 22 Người làm đều ác tại trước mặt Đức Giê-hô-va, y như Ma-na-se, cha người, đã làm, cúng-tế cho các tượng chạm mà Ma-na-se, cha người, đã làm, và hầu-việc chúng nó. 23 Người không hạ mình xuống trước mặt Đức Giê-hô-va như Ma-na-se, cha người, đã làm; nhưng người càng thêm phạm tội. 24 Các đầy-tớ người mưu-phản, giết người tại trong cung-điện người. 25 Còn dân-sự của xứ lại giết các kẻ đã mưu-phản giết vua A-môn; rồi lập Giô-si-a, con trai người, làm vua thế cho người.