II Sử ký của không rõ, do Phan Khôi dịch
Đoạn 3

Sự xây-cất đền-thờ

31 Sa-lô-môn khởi cất đền Đức Giê-hô-va tại Giê-ru-sa-lem, trên núi Mô-ri-a, là nơi Đức Giê-hô-va đã hiện ra cùng Đa-vít, cha người, tại trên chỗ mà Đa-vít đã dọn, tức là trong sân đạp lúa của Ọt-nan, người Giê-bu-sít. 2 Sa-lô-môn khởi xây-cất nhằm ngày mồng hai tháng hai, năm thứ tư đời người trị-vì.

3 Nầy là nền Sa-lô-môn đã lập đặng cất đền của Đức Chúa Trời: bề dài, theo thước xưa, là sáu mươi thước, và bề ngang hai mươi thước. 4 Hiên cửa ở phía trước, bề dài hai mươi thước, y như bề ngang của đền vậy, và bề cao một trăm hai mươi thước; người bọc bề trong bằng vàng ròng. 5 Cái vách đền lớn, người lợp bằng gỗ bá-hương, và bọc vàng ròng, chạm hình cây chà-là và dây-xích ở trên. 6 Người lót đền bằng đá quí đặng trang-sức nó; vàng là vàng Phạt-va-im. 7 Người lại bọc vàng cái đền, mè, nghạch-cửa, vách, và cửa của đền, còn trên vách thì chạm hình chê-ru-bin.

8 Người cũng làm nơi chí-thánh: bề dài hai mươi thước, y như bề ngang của đền, và bề ngang cũng hai mươi thước; người bọc nơi ấy bằng vàng ròng; vàng dùng cọng đặng sáu trăm ta-lâng. 9 Những đinh vàng cân nặng năm mươi siếc-lơ; người cũng bọc vàng các phòng cao.

10 Tại trong nơi chí-thánh, người làm hai chê-ru-bin, cứ phép trổ tượng, rồi bọc vàng. 11 Bốn cánh của hai chê-ru-bin dài hai mươi thước; cánh nầy của chê-ru-bin bên hữu dài năm thước, đụng đến vách đền; còn cánh kia cũng dài năm thước, và đụng cánh của chê-ru-bin bên tả. 12 Cánh nầy của chê-ru-bin về bên tả dài năm thước, và đụng đến vách đền; còn cánh kia cũng dài năm thước, tiếp-giáp với cánh chê-ru-bin về bên hữu. 13 Các cánh của hai chê-ru-bin đều sè ra, cọng dài hai mươi thước; hai chê-ru-bin đứng thẳng chơn lên, ngảnh mặt hướng về nơi thánh. 14 Người lại chế bức màn bằng chỉ màu xanh, màu tím, màu đỏ sặm, cùng chỉ gai xe mịn, rồi ở trên thêu hình chê-ru-bin.

15 Đằng trước đền, người xây hai cây trụ, bề cao ba mươi lăm thước, đầu-trụ ở trên chót hai trụ được năm thước. 16 Người lại làm dây-xích giống như dây-xích trong nơi chí-thánh, để trên chót trụ, rồi làm một trăm trái lựu mà gắn nơi dây-xích ấy. 17 Người dựng hai trụ đó ở trước đền-thờ, cây nầy bên hữu, cây kia bên tả; đặt tên cây bên hữu là Gia-kin[1], và cây bên tả là Bô-ách[2].

  1. Nghĩa là Chúa sẽ kiên-lập.
  2. Nghĩa là tại đền ấy có sức-lực.