Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu, Tản Đà dịch)

Hoàng Hạc lâu - 黃鶴樓  (1937) 
của Thôi Hiệu, do Tản Đà dịch
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa Dịch thơ

黃鶴樓
昔人已乘黃鶴
地空黃鶴樓
黃鶴一去不復返
白雲千載空悠悠
晴川歷歷漢陽
萋萋鸚鵡洲
日暮鄉關何處
煙波江上使人愁

Hoàng Hạc lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không Hoàng Hạc lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ.
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Lầu Hoàng Hạc
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi rồi.
Ở chỗ này đây chỉ còn trơ lại một ngôi lầu tên là Hoàng Hạc.
Hạc vàng đã bay đi rồi, không trở lại nữa.
Mây trắng ngàn năm vẫn bay lơ lửng hoài.
Bên dòng sông khi trời lạnh, hàng cây đất Hán Dương trông rõ mồn một.
Trên bãi Anh Vũ cỏ thơm mọc mơn mởn xanh tươi.
Lúc trời chiều, đứng ngắm cảnh, tự hỏi đâu là nơi quê nhà?
Khói tỏa trên sông sóng gợn khiến cho người ta sinh ra mối buồn rầu trong lòng.

Gác Hoàng Hạc
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ!
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?