Họa mười bài Tự thuật

Họa mười bài Tự thuật
của Phan Văn Trị

Mười bài thơ này do Phan Văn Trị làm để họa lại mười bài Tự thuật của Tôn Thọ Tường. Phần văn bản chép theo Phan Văn Trị: cuộc đời và tác phẩm do Nguyễn Khắc Thuần-Nguyễn Quảng Tuân biên soạn. Có sách chép khác đôi ba chữ.

1 2

Hơn thua chưa quyết đó cùng đây,
Chẳng đã, nên ta mới thế này.
Bến Nghé quản bao cơn lửa cháy,
Cồn Rồng dầu mặc bụi tro bay.
Nuôi muông giết thỏ còn chờ thủa,
Bủa lưới săn nai cũng có ngày.
Đừng mượn hơi hùm rung nhát khỉ,
Lòng ta sắt đá há lung lay.

Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ.
Người trí mảng lo danh chẳng chói,
Đứa ngu mới sợ tuổi không chờ.
Bài hòa đã sẵn trong tay thợ,
Việc đánh hơn thua giống cuộc cờ.
Chưa trả thù nhà đền nợ nước,
Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ.

3 4

Tai ngơ sao được lúc tan tành,
Luống biết trách người chẳng trách mình.
Đến thế còn khoe danh đạo nghĩa,
Như vậy cũng gọi cửa trâm anh.
Khe sâu vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có, ắt danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.

Thân danh chẳng kể, thiệt thằng hoang!
Đốt sáp nên tro lụy chẳng càn.
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giáo xáo tan hoang.
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăng văng[1] mới gặp vàng.
Thương kẽ đồng văn nên phải nhắc,
Dễ ta đâu dám tiếng khoe khoang.

5 6

Khoe khoang việc phải mới rằng khôn,
Kẻ vạy người ngay há một phồn.
Hồng dẫu hư lông đâu sợ sẻ,
Hùm như thất thế dễ thua chồn.
Người Nhan[2] xá ngại dao kề lưỡi,
Họ Khuất[3] nào lo nước đến trôn.
Tháy máy[4] gặp thời ta sẽ động,
Muốn nên việc lớn chớ bôn chôn[5].

Bôn chôn cũng bởi bận vì nhà,
Dám trách người xưa chẳng tính xa?
Hăm hở hãy đang hăng sức trẻ,
Chìu lòn e cũng mỏn hơi già.
Mồi thơm cá quý câu không nhạy,
Cung yếu chim cao bắn chẳng sa.
Đáy giếng trông trời giương mắt ếch,
Làm người như vậy cũng rằng là...

7 8

Rằng là người trí cũng xa lo,
Nhuần nhã kinh luân mới phải trò.
Ngay vạy nẻ ra cho biết mực,
Thấp cao trông thấy há rằng đo.
Xe Châu[6] nào đợi kinh năm bộ,
Níp Tống[7] vừa đầy sách nửa pho.
Chuốc miệng khen người nên cắc cớ:
Đạo trời ghét vạy há soi cho.

Soi cho cũng biết ấy là người,
Chẳng tiếc thân danh, luống sợ cười.
Ba cõi may dầu in lại cũ,
Đôi tròng trông đã thấy không ngươi.
Ngọc lành nhiều vết coi sao lịch,
Thợ vụng ít màu nhuộm chẳng tươi.
Đứa dại chót đời, già cũng dại,
Lựa là tuổi mới một đôi mươi.

9 10

Một đôi mươi uổng tính xăng văng,
Đất lở ai mà dễ dám ngăn.
Nong nả[8] dốc vun nền đạo nghĩa,
Xốn xang nào tưởng việc làm ăn.
Thương người vì nước ngồi không vững,
Trách kẻ cầm cân kéo chẳng bằng.
Gió xẵng[9] mới hay cây cỏ cứng,
Dõi theo người trước giữ năm hằng.

Năm hằng vốn thiệt thảo cùng ngay,
Cuộc ấy ai xui khéo bận thầy.
Gặp lúc chẳng may nên ngậm miệng.
Chờ khi tháy máy sẽ ra tay.
Nổi chìm mặc thế tình dày mỏng,
Cao thấp dầu ta sức nhảy bay,
Một trận gió đưa xiêu ngã cỏ,
Hơn thua chưa quyết đó cùng đây.

   




Chú thích

  1. xăng văng: sốt ruột trông đợi một điều gì đó đến nỗi đứng ngồi không yên.
  2. Người Nhan đây là Nhan Cảo Khanh, làm thái thú quận Trường Sơn đời Đường. Vì không chịu khất phục An Lộc Sơn nên bị cắt lưỡi rồi chết.
  3. Chỉ đại phu nước Sở là Khuất Nguyên.
  4. Tháy máy hay thấy máy, do chữ "kiến cơ" dịch ra, có nghĩa thấy được manh mối trước khi sự việc xảy ra.
  5. Bôn chôn có nghĩa nôn nóng.
  6. Xe Châu là xe của Châu Văn Vương đi rước Khương Tử Nha về làm tướng quốc.
  7. Níp Tống chỉ pho sách của Triệu Phổ đời Tống. Sách ấy, nửa pho giúp Thái Tổ (Triệu Khuông Dẫn) lấy được nước, nửa pho giúp Thái Tông (Triệu Khuông Nghĩa) dựng nên nghiệp thái bình.
  8. Nong nả: hết lòng, hết sức.
  9. Gió xẵng: gió mạnh.