Hán Dương vãn diểu - 漢陽晚眺
của Nguyễn Du

Hán Dương: một huyện thuộc tỉnh Hồ Bắc, cách Võ Xương một con sông. Võ Xương là nơi có lầu Hoàng Hạc. Trong bài thơ "Hoàng Hạc lâu" của Thôi Hiệu có câu: "Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu" (Tản Đà dịch: Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non)

Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt

霸王陳跡屬悠悠,
漢水滔滔晝夜流。
龜鶴兩山相對岸,
神仙一去只空樓。
詩成草樹皆千古,
日暮鄉關共一愁。
想像當年吹笛夜,
白蘋紅蓼滿汀洲。

Bá vương[1] trần tích thuộc du du,
Hán thủy thao thao trú dạ lưu.
Quy Hạc lưỡng sơn tương đối ngạn,
Thần tiên nhất khứ chỉ không lâu[2].
Thi thành thảo thụ giai thiên cổ[3],
Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu[4].
Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ[5],
Bạch tần hồng liễu mãn đinh châu.

   




Chú thích

  1. Hán Dương cũng là nơi tranh bá đồ vương ngày trước
  2. Chỉ lầu Hoàng Hạc ở bên kia sông
  3. Ý Nguyễn Du muốn nói nhờ bài thơ "Hoàng Hạc lâu" ấy mà cây Hán Dương, cỏ bãi Anh Vũ truyền lại đến ngày nay, cây cỏ nhờ có thơ của Thôi Hiệu mà bất hủ. Cây đây là cây ở Hán Dương, cỏ đây là cỏ ở Anh Vũ trong bài "Hoàng Hạc lâu" của họ Thôi. Mà cây đây cỏ đây cũng là cây cỏ trước mắt và trong thơ của tác giả Nguyễn Du. Trong bài "Hoàng Hạc lâu" của Nguyễn Du có câu: "Nhãn trung thảo thụ thượng y y", ý nói "cây cỏ trước mắt vẫn còn y như cây cỏ nghìn xưa tả trong thơ Thôi Hiệu". Nhờ thơ Thôi Hiệu mà Nguyễn Du còn thấy được cây cỏ nghìn xưa trên cây cỏ ngày nay. Và cây cỏ ngày nay sẽ nhờ thơ Nguyễn Du mà còn trong mắt người hậu thế
  4. Trong thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu có câu: "Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu" (Tản Đà dịch: Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng thêm buồn lòng ai). Nguyễn Du mượn chữ trong câu đó, ý nói đối với quê hương người xưa cũng như người nay, người Hoa cũng như người Việt, đều tha thiết như nhau, đều cộng nhất sầu
  5. Ý này lấy trong câu thơ của Lý Bạch: "Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch" (Trong lầu Hoàng Hạc có tiếng sáo ngọc thổi)