Hàn nho phong vị phú
của Nguyễn Công Trứ

Chém cha cái khó!
Chém cha cái khó!
Khôn khéo mấy ai ?
Xấu xa một nó!
5Lục cực[1] bày hàng sáu, rành rành kinh huấn[2] chẳng sai,
Vạn tội[3] lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.

Kìa ai:
Bốn vách tường mo[4],
Ba gian nhà cỏ.
10Đầu kèo mọt tạc vẽ sao[5],
Trước cửa nhện giăng màn gió[6].
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi[7] quanh co,
15Góc tường đất, trùn[8] lên lố nhố.
Bóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô[9],
Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó[10].
Trong cũi, lợn nằm gặm máng[11], đói chẳng muốn kêu,
Đầu giàn, chuột lóc[12] khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
20Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no[13],
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ[14].
Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà[15], buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
25Khăn lau giắt đỏ lòm, trải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đổ mồ hôi, võng lác[16], quạt mo,
Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn, sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,
Đồ chơi, nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.
30Đồ chuyên trà: ấm đất sứt vòi,
Cuộc uống rượu: be sành chắp cổ.
Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, màu thủy mặc[17] mờ mờ,
Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhắp lăm nhăm, dấu thổ châu[18] đo đỏ.
Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng[19], hàng văn, hàng sách[20] lờ mờ,
35Bàn cờ săng[21], bảy kiếp nhà ma[22], chữ nhật, chữ điền[23] xiêu xó.
Lộc nhĩ điền[24]: lúa chất đầy giường,
Phương tịch cốc[25]: khoai vừa một giỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phổng, thường giữ ba cọc ba đồng[26],
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một triêng[27] một bó,
40Mỏng lưng[28] xem cũng không giàu,
Nhiều miệng lấy chi cho đủ.
Đến bữa, chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qua kỳ, lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó[29].
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y,
45Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.
Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ.
Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.
50Gập khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.
Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công ?
Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
55Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
60Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần,
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.
Tất do thiên, âu phận ấy là thường,
65Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,
Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.
Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,
Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.
70Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ.

Mới biết:
Khó bởi tại trời,
Giàu là cái số.
75Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,
Cũng bất quá thủ tài chi lỗ.

   




Chú thích

  1. Lục cực 六極: Sáu điều cực nhục của con người gồm: chết non, bệnh tật, buồn lo, nghèo khó, xấu xa, yếu hèn
  2. Kinh huấn 經訓: lời dạy trong sách.
  3. Vạn tội: Do câu ngạn ngôn chữ nho: "Vạn tội bất như bần" 萬罪不如貧 - muôn tội chẳng gì bằng tội nghèo.
  4. Tường mo: tường bằng mo cau, chứ không xây bằng gạch.
  5. Đầu kèo mọt tạc vẽ sao: kèo là một phiến gỗ hoặc là một cây tre giao đầu với một phiến khác hoặc một cây khác để đỡ mái nhà. Cả câu nghĩa là: mọt đục cái đầu kèo, tạc thành hình lỗ chỗ như những ngôi sao.
  6. Nhện giăng màn gió: nhện giăng tơ trông tự màn che gió.
  7. Mối dũi: mối đây là giống kiến trắng đắp đất trên các đồ gỗ để đục; dũi đây là chui rúc để đục khoét.
  8. Trùn: giun
  9. Bóng nắng giọi trứng gà trên vách thằng bé tri trô: vì mái nhà thủng lỗ chỗ, ánh nắng soi qua các lỗ thủng ấy, chiếu lên trên vách, thành những hình tròn, trông tựa trứng gà, trẻ con trong nhà thấy thế lấy làm lạ, bập bẹ hỏi, nói.
  10. Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó: vì mái nhà thủng, nước mưa qua lỗ thủng rơi trúng vào hang chuột, mèo thấy tiếng động ở hang tưởng là có chuột, rình mò định bắt.
  11. Máng: thứ chậu bằng gỗ dùng để đựng đồ ăn cho lợn.
  12. Lóc: nhảy lên.
  13. Lấy ý từ câu của Khổng Tử trong Luận ngữ: "Quân tử thực vô cầu bão" 君子食無求飽.
  14. Đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ: dịch câu chữ Nho: "Thái bình chi thế, ngoại hộ bất bế" 太平之世外戶不閉. Ý nói: chỉ những lúc thái bình thì cửa ngõ bỏ ngỏ mà cũng không mấy trộm.
  15. Vỏ dà: vỏ một thứ cây, màu đỏ, vị chát, dùng để nhuộm vải.
  16. Lác: cói dùng để dệt chiếu.
  17. Thủy mặc 水墨: nước và mực; nói về thứ tranh vẽ bằng mực tàu pha với nước.
  18. Thổ châu 土硃: son đất.
  19. Ba đời cửa tướng: nghĩa đen là ba đời kế tiếp nhau trong nhà một vị tướng; nghĩ bóng là lâu đời.
  20. Hàng văn hàng sách: văn, sách là những chữ viết trên quân bài tổ tôm như nhất văn, nhất sách, nhị sách, v.v.
  21. Săng: gỗ (tiếng Đàng trong).
  22. Bảy kiếp nhà ma: nghĩa bóng là lâu đời, cũ rích.
  23. Chữ nhật, chứ điền: các đường đi trong bàn cờ, có những đường hợp thành hình chữ nhật 日, lại có những đường hợp lại thành chữ điền 田.
  24. Nhĩ điền 爾田: chữ trong Kinh Thi, nghĩa là ruộng của người, tức là ruộng tư điền.
  25. Tịch cốc 辟穀 (tịch: bỏ; cốc: thóc): không ăn thóc (một cách để tu tiên).
  26. Ba cọc ba đồng: tục ngữ. Nghĩa đen là ba cọc chỉ có ba đồng; nghĩa bóng là số thâu nhất định, không khi nào dôi ra.
  27. Triêng: gánh.
  28. Mỏng lưng (lưng: vốn) ít vốn.
  29. Ó: loài chim diều hâu, tiếng kêu to. Bởi thế chữ ấy cũng dùng làm động từ nghĩa là kêu: la ó.