Gia Long tẩu quốc/Hồi thứ mười sáu

HỒI THỨ MƯỜI SÁU

Lập vọng-đài phòng việc chiến binh,

Nhớ thệ ước tìm người nghĩa cũ.


Đây nhắc lại khi Châu văn Tiếp từ biệt cô Ngọc-Sương, theo phò Đức Nguyển-Ánh, dẹp Tây Sơn, thâu phục Saigon đặng rồi, thì Nguyễn-Vương phong làm khâm-Sai-Đô-đốc, sai ra trấn Bình-thuận, Khánh-Hòa, chổ nầy là một chỗ quang phòng yếu địa, nên Châu-văn-Tiếp ngày đêm lo chấn chỉnh binh nhung, luyện tập quân sỉ, trên bộ thì lo bồi thành đấp lủy, bố trại lập đồn, dưới thủy thì lo chế tạo chiến-thuyền, đặng phòng ngự quân giặc Tây-Sơn, trong khi đem binh xâm lược, nhứt diện lại cho người ra Khánh-Hòa Phú-Yên, chiêu mộ nhơn dân, đem về tập rèn, đặng lập thêm quân ngũ, nhứt diện thì sai các tướng bộ hạ, vào rừng chiêu dụ mấy máng mọi, bão vở gỗ đốn cây, đặng dùng làm công vụ, và cất một cái vọng-đài trên một hòn núi rất cao, để trông ra bốn phía mà coi chừng quân giặc.

Từ dưới chơn núi lên tới vọng đài, bề cao độ chừng hai trăm trượng, có làm đường thông hành quanh qua lộn lại, để cho quân lính xuống lên, còn các nơi hiễm yếu, cùng các chổ biên thùy, thì có cất phong-hỏa-đài, trong các phong-hỏa-đài nầy, có chứa củi khô và rơm bỗi để khi có giặc đốt lên mà làm hiệu lịnh, còn dưới thủy có đặt chiến-thuyền, ngày đêm tuần phòng dọc theo mé biển.

Châu-văn-Tiếp lại đặt một đạo binh tuần phòng dọc theo mé rừng, từ Bình-Thuận ra tới địa phận Phú-Yên, đặng ngăn ngừa quân giặc Tây sơn, và thám thính binh tình động tịnh, đâu đó sắp đặt chỉnh tề, và ngày đêm phòng nghiêm-nhặc.

Các sắc binh của Đô-đốc Châu-văn-Tiếp trấn tại Bình-Thuận kể ra dưới đây.

1·— Một ngàn binh bộ đều dùng cung nổ và trường thương.

2·— Hai trăm binh pháo-thủ coi các vị súng lớn trí chung quanh thành lũy.

3·— Năm trăm binh mã-kỵ để làm 5 đội binh Du-kích.

4·— Ba chục chiến tượng (voi đánh giặc) mỗi thớt có 4 tên quân ở trên bành voi đều dùng trường thương và Hõa-hỗ trong khi xuất trận.

5·— Một ngàn binh thủy và 20 chiến thuyền lớn, mổi chiếc có 50 thủy binh, và 30 chiến-thuyền nhõ, mổi chiếc có 20 binh thủy. Cả thãy các sắc binh cọng hơn 3000 người, thảy đều tập luyện tinh thục.

Bữa nọ cái vọng-đài cất trên núi hoàn thành rồi, Châu-văn-Tiếp và các tướng bộ hạ kéo nhau lên xem, khi lên tới vọng-đài thấy phía hậu có một sơn động rất to, phía tiền có một thạch bàn rộng rãi.

Châu-văn-Tiếp và các tướng liền leo lên vọng đài, ngó quanh bốn mặt, trông qua hướng tây, thấy minh mông biển bạc, trời nước một màu, nhìn qua hướng bắc thấy chớn chở non cao. Cỏ cây xanh mịt, ấy là:

Non mặc áo cây xanh mịt mịt,
Biển trùm mền nước trắng phao phao.

Ngó xuống biển thì thấy sóng bồi bải cát, trông lên đảnh lại thấy núi đội vừng mây, xem ra như tuồng:

Biển lo đất thiếu bồi thêm cát,
Núi sợ trời nghiên đở lấy mây.

Kìa là ráng hồng ững ững, nọ là gió thổi hiu hiu, thật là một cãnh trời chiều, xem ra như ai thêu ai vẻ.

Đó rồi Châu-văn-Tiếp lại đứng bên góc vọng-đài, trông vào Nam-kỳ, thấy ngàn trùng vân thọ, thinh thang đất rộng trời cao, muôn dậm quang hà[1] thâm thẫm non xanh nước biết, bổng chúc vì đâu nổng nổi, khiến cho nhắm cãnh rồi chạnh lòng, dường như có một mối cãm tình, ai đem vấn vương vào ruột.

Châu-văn-Tiếp đương đứng trầm-tư mặc-tưởng, bổng thấy một người thắp thoán hiện ra trước mắt, hình dung yễu-điệu, cốt cách dịu-dàng, đẹp thay một gái hồng nhan, rỏ ràng là người giai-nhơn tuyệt-sắc, nào là chơn mày nét mặt, nào là vóc liểu hình mai, diện mạo nghiểm nhiên hiện ra trước mắt Châu-văn-Tiếp, ấy là một nàng tình xưa nghĩa củ cũa người là cô Ngọc-Sương khi trước.

Cô Ngọc-Sương nào đây? cô Ngọc-Sương ở đâu sao lại hiện ra trước mắt?

Vì trong khi Châu-văn-Tiếp đứng trên vọng-đài, ngó vào Giadinh, đương lúc đối cảnh sanh tình, nhớ lại cô Ngọc-Sương trong lúc gặp gở tại Long-xuyên, nên làm cho người tưởng tượng nơi lòng, mơ màng trong trí, nhớ khi gặp hội tao phùng, nhớ lúc trao lời tiển biệt, rồi bao nhiêu mặt mày hình trạng, dường như thấy cô hiện ra trước mắt, nên người đứng ngó sửng sờ vào Nam, rồi lẵng lặng làm thinh chẳng nói chi hết.

Bỗng có quan Tham-tá là Đặng-đình-Huy thấy người đứng sửng yêm liềm, thì bước tới và hõi rằng:

Bẫm Đô-đốc, Đô-đốc ngó vào Nam-kỳ xem địa cuộc phong cãnh thế nào? dường như có ý nghĩa nghị đều chi, mà Đô-đốc lặng thinh chẳng nói?

Châu-văn-Tiếp nghe hỏi liền day lại nói trớ đi rằng:

— Ta xem vào Nam-kỳ thật là một xứ điền phì địa quãng, vật thạnh dân phong,[2] nếu ngày kia chúa-thượng dẹp yên quân giặc Tây-sơn và khôi phục sang hà nầy rồi, thì xứ Nam-kỳ đó là một kho vàng rất to của Nam-việt.

Quan Tham-tá Đặng-đình-Huy nói: Thật xứ Nam-kỳ ẫy là một kho vàng rất to, và cũng là một vựa lúa rất lớn. Vì vậy mà quân giặc Tây-sơn Nguyễn-Nhạc không thế nào chịu đễ kho vàng vựa lúa ấy lại cho ai, bởi vậy ghe ngày chúng nó sẻ đem binh xông vào mà chiếm đoạt, vậy nếu trong khi có giặc, thì xứ Bình-Thuận nầy là chổ địa đầu, để chịu mủi đạn lằng tên, và là một nẽo đường để cho quân giặc xông vào Giadinh.

Châu-văn-Tiếp nói: nếu ta còn trấn thủ xứ nầy, thì chẵng hề để cho quân giặc đến đây mà xông vào Giadinh, nói rồi liền dắc nhau xuống núi trở về, và các tướng sỉ cáo từ, rồi ai về dinh nấy.

Đêm ấy Châu-văn-Tiếp nghỉ lại khi tri ngộ cô Ngọc-Sương tại Long-xuyên, và gá nghỉa tóc tơ cùng cô, từ ấy đến nay, mảng lo bôn ba việc nước, nên không cơ hội nào rãnh mà hiệp mặt cùng nàng, tội nghiệp thay cho nàng, phận gái linh-đinh, cha già yếu đuối chẳng biết nàng cùng ông thân nàng bây giờ lưu lạc xứ nào.

Nghĩ vậy thì chạnh lòng ly biệt, xót dạ ân tình, tức thì sáng bữa ấy, Châu-văn-Tiếp ra trước văn phòng, viết một tâm thơ, phong niêm tữ tế, rồi bão quân hầu đòi hai tướng bộ hạ tâm-phúc của ngươi là Hồ-công với Lý-Viễn, và dặn rằng:

— Hai người lập tức sắm sửa hành trang, rồi vào Nam-kỳ đến tại Long xuyên, hỏi thăm nhà ông Cử-Khôi, và con gái ông tên là Hồng-ngọc-Sương, như gặp thì trao thơ nầy cho cô xem, nếu ông và cô gái nầy không có ở Long-xuyên, thì hai ngươi phải qua Long-hồ mà tìm kiếm cho được, như gặp thì hai ngươi phải tiếp rước về đây cho tữ tế; nói rồi lấy bạc tiền đưa cho hai tướng ấy đặng làm lộ-phí mà lên đường.

Hai tướng bộ hạ liền cúi đầu phụng mạng ra đi, tuốt vào Nam-kỳ mà tìm kiếm.


   




Chú thích

  1. Quang hà là mấy cái quang ải và sông suối.
  2. Vật thạnh dân phong là vật thực nhiều và dân giàu có đông đảo.