Giọt máu chung tình/Hồi thứ mười ba

HỒI THỨ MƯỜI BA

Chốn phong ba, cỡi sóng rược giàn đồ,

Cơn hoạn nạn, ra tay đền nghĩa vụ.

Từ khi Võ-đông-Sơ phụng mạng đi tuần dương, dẹp xong quân Hãi-khấu Trung-quấc rồi, thì lo sắm sửa hành trang, đi với một tên bộ-hạ trở về Đông-kinh đặng phục mạng. Hai thầy trò lên đèo xuống ãi, chỉ lo giục ngựa buông cương, trông cho mau tới tỉnh-thành, đặng trước là ra mắt Lê-công, sau là hội diện cùng Tiễu-thơ Bạch-thu-Hà mà tính cuộc nhơn duyên cang lệ.

Khi đi tới một bến đò, thì trời đã tối, dựa bến có một chiếc ghe nhỏ nhỏ, để đưa hành khách qua sông. Đông-Sơ liền xuống ngựa bước lại đứng dựa cầu đò, đặng nhắm xem phong-cãnh, thì thấy một gương Hằng-nga tỏ rạng, ở dưới, góc núi lần lần ló lên, và một giãi trường-giang thinh thoan rất lớn, nước dọi bóng trăng, xem như rắn dỡn rồng đoanh, muôn dặm hào quang soi nhấp nhán; sóng xao gành núi, nghe dường đờn tâu nhạc rổi, ngàn trùng bạch thủy trắng phao phao.

Đông-Sơ đương đứng rão mắt ngó mông, bổng thấy một chiếc ghe, trương bườm bọc gió ở phía trên sông chạy xuống như tên. Khi chạy ngang qua trước bến đò, thì thấy hai người con gái ngồi dưới bóng đèn sáng ở trong mui ghe, rỏ ràng là Tiễu-thơ với Thể-nữ Xuân-Đào, chẳng sai một mãy.

Đông-Sơ lấy làm lạ và tự nghĩ rằng: « Tiểu-thơ và Thể-nữ chẳng lẻ đi đâu như vậy, mà cớ sao xem hình trạng thì giống in như hịch, chẳng khác chúc nào, hay là người giống người mà mình mập mờ xem lộn đó chăng? Nghĩ như vậy rồi lại kêu lớn một tiếng: Xuân-Đào, đặng coi phải hay không cho biết. Thật kêu vừa dứt lời, thì Thể-nử Xuân-Đào liền day mặt ngó ra, dường như kiếm coi ai kêu mình đó vậy.

Tiễu-thơ nghe kêu cũng ngó ra. Song trời tối mờ mờ, phần thì ghe chạy mau như tên, nên không biết rỏ là ai hết. Phần thì nghi cho anh là Công-tữ theo kiếm, vì vậy nên chẳng dám dỉ hơi cứ việc làm thinh, để coi ai cho biết.

Đông-Sơ thấy rỏ ràng là Tiễu-thơ, thì kêu tiếp thêm một tiếng lớn « Tiểu-thơ, Tiểu-thơ » xin biểu đình thuyền đặng vài lời gạn hỏi.

Khi ấy Tiễu-thơ nghe chẳng phải tiếng anh, thì lật đật bước ra ngoài đứng xem, tuy chẳng thấy rỏ ràng, song nhờ lúc trời trong trăng tỏ, xem tướng mạo thì biết là Đông-Sơ, liền biểu tài-công ngừng thuyền. Nhưng tên tài công cứ việc cho thuyền chạy tới, lại biễu vợ trương thêm một lá bườm nữa mà chạy cho mau. Thuyền nhẹ bườm cao, bọc gió lước sóng, chạy như tên bắn chim bay.

Tiểu-thơ và Thễ-nữ thấy tên tài-công chẳng chịu quày thuyền, thì thất kinh lấy tay ngoắt và kêu Đông-Sơ, dường như biểu theo mà tiếp cứu.

Đông-Sơ trong lúc bối rối, chẳng biết tính sao, ngó lại thấy một chiếc tam-bãn đậu dựa mé sông, tức thì biễu tên bộ-hạ ở đó coi ngựa, rồi nhảy ngay xuống tam-bãn lấy chèo bơi theo. Theo mau chừng nào thì thuyền ấy lại chạy mau chừng nấy.

Đông-Sơ thấy vậy càng hồ nghi, ráng sức bơi theo, tam-bãn trường lên ngọn sóng lước tới như bay. Kế đó gió càng ngày mạnh, sóng càng khắc càng to, chiếc tam-bãn hụp xuống trồi lên giữa trận ba đào, xem rất nguy hiễm. Những người đứng trên bến đò thảy đều kinh tâm táng đởm. Nhưng Đông-Sơ là người đã từng quen xua thuyền cởi sóng, nơi chốn mặt biễn chơn trời, nên gặp cơn nguy hiểm thế nào, cũng chẳng nao lòng thối chí.

Khi Đông-Sơ thấy thuyền ấy chạy trước đã xa, và lại chiếc tam-bãn bị sóng dập gió dồi, trồi lên hụp xuống, vô nước đã nhiều, nếu gặp một lượng sóng to, ắc chìm chẳng khỏi, lại trộm nghĩ rằng: Nếu mình theo chẳng kịp thuyền kia thì chắc Tiễu-thơ phải lâm tay độc thũ. Nghĩ vậy nên và bơi và tác nước, đặng ráng mà rược theo, chẳng dè một lượng sóng rất lớn lước tới ồ ồ, bỏ vòi cao hơn năm thước, dựng trước tam-bãn như một vách thành, rồi ào ào chụp xuống.

Đông-Sơ lúc ấy ngước mặt kêu trời và la lên rằng: « Trời ôi, ai cứu tôi với! Cái sóng vô tình kia ôi! thuở nay ta không thù oán chi đến mi, sao ngày nay mi chờ ta đến đây mà hại vậy. » Vừa dức lời thì ngọn sóng dử tợn ấy đã dồi chiếc tam-bãn lên trên không, rồi hạ xuống sâu như vực thẩm, kế một ngọn sóng nữa ùn ùn lước tới chụp lên, thì chiếc tam-bãn và Đông-Sơ đều chìm mất.

Một cuộc nguy hiễm rất dữ dằn nầy, dẩu cho ai sức mạnh như thần, tài lội như rái, cũng không thế nào vẫy vùng thoát khỏi đặng. Huống chi Đông-Sơ bị bơi một hồi đã mỏi mệt tay chơn, lại giữa chốn cuồng phong nộ lãng, nước chảy sông sâu như vầy, thì còn sức đâu mà lội đặng.

Lúc nầy tên bộ hạ của Đông-Sơ và mấy người đứng trên bến đò đều thất kinh và la lên: Trời ôi, chiếc tam-bãn đã chìm rồi còn chi mà kể. Khi Đông-Sơ bị một lượng sóng dử nhận chìm thuyền rồi, nổi lên hụp xuống hai ba lần đã mõn sức đuối hơi, đó rồi lần lần ngấm xuống. Trong lúc cái chết đã tới trong cơn hấp hối nầy, Đông-Sơ rán cượng hai chơn đạp nước một cái nỗi lên. Bỗng đâu có một cánh tay mạnh mẻ kia, như cánh tay của thiên thần trên không, thò xuống nắm Đông-Sơ kéo lên, thì Đông-Sơ xát đã lìa hồn, chỉ nằm thiêm-thiếp một giấc Huỳnh-lương, và không nhúc nhít.

Một lác Đông-Sơ tỉnh hồn mở mắt, thấy mình nằm trong một chiếc ghe, và ngó lại thấy một người đương ngồi bên mình, cầm hai tay xô qua lắc lại, làm cho chuyễn động tinh thần, châu lưu huyết mạch, lại thấy một mãnh yểu điệu hồng nhan, đương ngồi quạt lữa đốt thang, như một vị nam thiên thần với một vị nữ bồ tác, thấy Đông-Sơ bị nạn thì hiện xuống mà ra tay tế độ, vớt người trầm luân.

Nguyên người cứu Đông-Sơ nầy chẳng phải là người nào xa lạ. Vẩn là người bán gươm kết nghĩa kim bằng với Đông-Sơ khi trước, tên là Triệu-Dõng. Khi Triệu-Dõng với một người em gái là Triệu-Nương ở tĩnh Quản-Yên về, đi tới bến đò, thấy hai con ngựa cột dựa đường, và thấy một người đương đứng day mắt ngó ngay ra ngoài sông, mặt có sắc buồn, xem bộ chẳng yên, dường như có đều chi bồi hồi lo sợ.

Triệu-Dõng thấy vậy bước tới và hỏi rằng: cậu, cậu đứng đây chờ ai?

Tên kia nói: « Tôi chờ chủ tôi là Trung-Uý Vỏ-đông-Sơ, người mới bơi một chiếc tam-bản mà rược theo chiếc thuyền chạy bườm phía trước đó, tôi thấy chiếc tam-bản nhỏ, bị gió dập sóng dồi, trồi lên hụp xuống, rất hiễm[1] nguy, song chẳng biết làm sao mà tiếp cứu. Nói rồi lấy[1] tay chỉ ra ngoài khơi, và la lên rằng: kia kìa, tam-bản[1] kia kìa, mấy người đứng trên bờ thấy tam-bản bị sóng[1] đánh nghiên qua lắc lại gần chìm, thì đều chắc lưởi lắc[1] đầu và nói: trời ôi! chổ ngã tư sông đó là một chổ sóng[1] gió rất hiểm nghèo, xưa nay chẳng biết bao nhiêu ghe[1] chìm thuyền lụy, song đứng nói mà thôi, chớ chẳng thấy[1] một ai khẳn khái dám ra tay tiếp cứu.[1]

Triệu-Dõng nghe nói Vỏ-đông-Sơ thì thất kinh, ngó ra[1] thấy một người ngồi trên chiếc tam-bản nhỏ trôi nổi giữa chốn[1] phong đào, thật một cãnh ngộ rất ngặc nghèo nguy hiễm lắm, nếu chẳng ra tay tiếp cứu thì tam-bản ấy ắc phải bị chìm. May đâu có một chiếc ghe không, để dựa mé sông. Triệu-Dõng day lại nói với em gái là Triệu-Nương rằng: anh em mình phải cứu Đông-Sơ mới đặng.

Đó rồi hai anh em vội vàng nhãy xuống ghe ấy, gay chèo bơi theo. Mấy người đứng trên bến đò thất kinh, ai ai cũng lom lom chống mắt ngó theo, thấy mấy lượng sóng to lước tới ồ ồ, bỏ vòi trắng giả, dường như vạn mã thiên binh, gầm hét vang rân, nó thấy hai anh em Triệu-Dõng thì xốc tới mà đoạt thuyền hãm trận đó vậy.

Nhưng cái tánh liệc nhược tinh thần và cái tánh bàn quang tọa thị, nó đã thâm nhập cốt chỉ của mấy kẻ vô tình đó rồi, dẩu thấy ai lâm nguy, cũng đứng chấp tay sau lưng, lấy mắt ngó lơ là rồi thục đầu rút cổ, chẳng biết thi ân tựu nghĩa mà cứu giúp đồng-bào, chẳng biết mạo hiễm phò khuynh mà ra tay tế độ.

Chí như hai anh em Triệu-Dõng là người có khí phách anh hùng, tề tề chỉnh chỉnh, tuy lước vào giữa trận kịch liệc phong đào, nhưng xem dường một chổ vững vàng bình địa, chẳng chúc nào nao lòng khiếp chí cứ việc lước tới chớ chẳng lui, hể sóng tới thì trồi lên, sóng qua thì hụp xuống.

Khi chèo theo gần kịp thì thấy lượng sóng dử đã nhận chìm chiếc tam-bản của Đông-Sơ. Hai anh em Triệu-Dõng rán[1] sức chèo ghe lước tới như bay, thấy Đông-Sơ đương chìm[1] nỗi lững đững giữa giòng sông thì liền thò tay mà cứu vớt[1] và đem lửa hơ hám một hồi.

Khi Đông-[1] tĩnh lại mỡ mắt ra thấy Triệu-Dõng thì anh em mừng[1] rỡ vô cùng, rồi ngó theo chiếc thuyền kia thì chạy khuất[1] đã xa, chỉ thấy lắp ló một chót bườm trắng kia trên ngọn cây[1] đó thôi, không thế chi mà rược theo cho kịp.[1]

Đông-Sơ bèn thuật[1] đầu đuôi sự tình lại cho Triệu-Dỏng nghe. Đó rồi anh[1] em quày ghe trở lại bến đò, tạm nghĩ một đêm, sáng ngày[1] dắc nhau trở về Đông-kinh một lược.[1]

Khi tới Đông-kinh[1] Triệu-Dõng nói với Vỏ-đông-Sơ rằng: « Đây em xin từ giả nhơn huynh đặng về Hà-đông viếng thăm thân thích, nếu nhơn huynh có việc chi cần dùng đến em dầu thiên lao vạn khổ em cũng chẳng từ nan ».

Đông-Sơ nói: « Thật rất cảm tình cố hữu và cô nương, là người chỉ biết lấy sự cang nghị dỏng cảm làm chí khí tinh thần, mà cứu giúp anh em trong lúc hiễm nguy hoạn nạn, vạn tữ bất từ. Bằng hữu như vậy mới rằng bằng hữu tín thành, và đáng một bực trượng phu nghĩa khí, Chẳng phải như bằng hữu trong lúc bình thường vô sự, thì anh em quyến luyến, lui tới chơi bời, xem rất thiết nghĩa thân tình, rất tâm đầu ý hiệp. Song đến cơn ngộ biến lâm nguy, thì chĩ lo lách lách tránh xa, giả làm mặt ngơ tai điết, đặng khỏi đều họa gởi tai lây. Những bạn hữu ấy chĩ coi theo cái túi tiền tài mà giao kết chơi bời, chớ chẳng phải lấy sự thiết nghỉa chơn tình mà kết làm bậu bạn.

Vậy chúng ta phải xe dây thân ái mà ràng buộc cho khắn khích nghĩa kim bằng, và đem keo tín thành mà gắn chặc tình anh em lương hữu.

Triệu-Dỏng nói: Những lời anh nghị luận, em rất hiệp ý vừa lòng. Nếu mổi người chĩ lo bo bo phận ai riêng nấy, chẳng biết lấy tình nghĩa mà giao kết cho liên lạc anh em, chẳng biết lấy sự thân ái mà thương yêu nòi giống, thì dẫu cho mấy chục triệu sanh linh, cũng thành một dân tộc thịt chạy thây đi, và một dân tộc chẳng có tinh thần khí phách.

Huống chi là anh em mình ngày nay đã gọi rằng bằng hữu chi giao, đương lúc ngộ nạn lâm tai, lẻ đâu chẳng hết sức giúp nhau, đễ vậy mà bàn quang tọa thị, thì sao cho rằng phải.

Đông-Sơ nói: Nếu mổi người đều có một tư tưởng như hiền hữu vậy thì cái tiền đồ dân tộc của nước ta ngày kia sẻ trở nên mở mang phát đạt. Đó rồi hai anh em Triệu-Dỏng từ giã ra đi. Còn Đông-Sơ thì lật đật vào ra mắt Lê-công, và dưng địa đồ các cù lao Đông-dương và tĩnh Quảng-đông cho Lê-Công tường lảm. Rồi trở về tư dinh, nghĩ tới việc gặp Tiểu-thơ tại bến đò sông Nhĩ-hà, cũng một đều quái sự. Nhưng ức vì chẳng đặng giáp mặt mà gạn hỏi căng do, cho rỏ đều hư thiệt. Vì vậy nên trong lòng nghi ngại và bức rức chẳng yên. Những mãng ngậm thỡ ngùi than, tầm tư tự nghĩ một hồi, rồi vội vã sắm sửa y cân, đặng qua dinh Tiểu-thơ thăm nghe tin tức.


  1. a ă â b c d đ e ê g h i k l m n o ô ơ p q r s t Bản quét bị mất một mẩu giấy, nội dung được chép lại từ lần in thứ 2 năm 1929.