Chơi thuyền Hồ Tây[1]
của Nguyễn Khuyến

Thuyền lan[2] nhè-nhẹ.
Một con thuyền đủng đỉnh dạo Hồ Tây.
Sóng rập-rờn sắc nước lẩn chiều mây[3],
Bát-ngát nhẽ dễ trêu người du-lãm[4].
Yên thủy mang-mang vô hạn cảm,
煙 水 茫 茫 無 限 感
Ngư long tịch-tịch thục đồng tâm[5].
魚 龍 寂 寂 孰 同 心
Rượu lưng bầu, mong-mỏi bạn tri-âm[6].
Xuân vắng-vẻ, biết cùng ai ngâm họa?
Gió hây-hẩy bõng nức mùi hương xạ,
Nhác trông lên, vách phấn[7] đã đôi bài.
Thơ ai, xin họa một vài.

   




Chú thích

  1. Hồ Tây: tên một cái hồ ở phía tây thành phố Hà Nội lại có tên chữ là "Lãng bạc hồ".
  2. Thuyền lan: thuyền làm bằng gỗ mộc lan.
  3. Sắc nước lẩn chiều mây (lẩn: ẩn ở dưới; chiều: vẻ): màu nước hồ có vẻ mây che phủ, vì mặt nước phản chiếu mây ở trên trời.
  4. Người du lãm (du: chơi, lãm: xem): người đi chơi để xem cảnh.
  5. Câu 5-6: Hơi (yên: nghĩa đen nghĩa là khói) (và) nước mông mênh (gây nên mối) cảm xúc vô hạn. Cá (và) và rồng vắng vẻ (biết lấy) ai (làm bạn) đồng tâm (với mình).
  6. Tri âm: nghĩa chính là biết âm luật, biết thưởng thức tiếng đàn hay của một người nào. Nghĩa rộng (ở đây) là người bạn thân thiết, hiểu biết mình, cũng như chữ "tri kỷ".
  7. Vách phấn: vách quét vôi trắng.