VĂN QUÂN TIEN QUÂN TẾ CAC TƯỚNG SI TƯ TRẬN

Trời Đông-phố vận ra sóc kiểng, trải mấy phen gian hiêm mới có ngày rày,
1Nước Lư-hà chảy xuống Linh giang, nghĩ những kẻ điêu linh những từ thuở nọ.
2Đã hay sanh là ký, mà tữ là qui, nhưng mà mạng ấy yểu mà danh ấy thọ.

Nhớ ai nấy xưa:

3Tình dưới hiên mao, phận trong giái trụ.
Ba ngàn cắp con em đất Bái, cung tên ngang dọc chí nam nhi;
4Trăm năm vầy bờ cõi non Kỳ, cơm áo nặng dày ơn cố chúa.
Trao thân cho nước, son sắt một lòng;
5Trọn nghĩa cùng thầy, tuyết sương mấy độ.
Kẻ thì theo kẻ lử bước qua miền khách địa, hăm hở mài nanh trỗ vút, chỉ non tây thề chẳng đội trời chung,
6Kẻ thì cuốn viết mao trở lại chốn sơ cơ, dập diều dựa cánh nương vai, trông cõi bắc quyết thâu về đất cũ;

Nằm gai nếm mật, chung nỗi ân ưu;
7Mở suối bắc cầu, riêng phần lao khỗ.
Trước đã trải Xiêm-la, Cao-mên về Gia-định, mới lần ra Khương-thuận, biết mấy lúc sơn lam hải lệ, trời cao quang soi xét tấm trung trinh;
8Rồi lại từ Bàn-thạch, Quảng-ngải đến Phú-xuân, mà thẳng tới Thăng-long, biết mấy phen võ pháo vân thê, đất Lũng-thục lăn vào nơi hiểm cố.
Phận truy tùy gẫm lại cũng cơ dươn,
9Trường chinh chiến biết đâu là mạng số.
Kẻ thì theo chơn ngựa quyết giựt cờ trong trận, xót nhẻ! gan vàng, mà mạng bạc, nắm lông hồng theo đạn lạc tên bay;
10Kẻ thì đứng mũi thuyền toan cướp giáo giữa dòng, thương thay! phép trọng đễ thân khinh, phong da ngựa mạc bèo trôi sóng bổ.
Ôi!
Một niềm trung nghĩa, lẽ số đoản tu,
11Nửa cuộc công danh, chia người kiêm cỗ.
Tiếc là tiếc mảnh xương đồng da sắt, thanh bửu kiếm đã trăm rèn có sẵn, ấm no nên trả đến hình hài;
12Thương là thương tấm dạ đá gan vàng, bóng bạch cu xem nửa phút như không, giày đội chưa cam trong phế phủ.
Phận dầu không các tía đài mây,
13Danh đã khắp ngàn cây nội cỏ.
Cảm vì kẻ theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương, nệm tuyết, những mong xem cao thấp bức cân thường,
14Chạnh thay người lạc bước giữa đường kiếp đã về cõi suối, làng mây, nào kịp thấy ít nhiều hơi vũ lộ.
Ngọn còi túc nguyệt nơi trỗi nơi reo,
15Láng cỏ ngàn hoa chốn tươi chốn ủ.
Vâng Thượng đức ngự hồi loan tháng trước, đoàn ứng nghĩa từ Quảng, Thuận, Nghệ, Thanh mới đó, gội ân quang reo dậy dưới đèo Ngang;
16Những quân nhơn tùng thượng trận ngày xưa, cấp thưởng công từ Ngọ, Mùi, Thân, Dậu đến nay, treo tánh tự để nằm sau lá sổ.
Tình xưa ngao ngán nẽo tà ô,
17Dấu cũ ngậm ngùi đường lạc thố.

Đã biết đứng anh hùng thì bất quản, trăm trận một trường hoanh liệt, cái sanh không cái tử cũng như không;
18Song trách con tạo hóa khéo vô tình, ngàn năm mấy hội tao phùng, phận thỉ có phận chung sao chẳng có.
Bổn tước nay,
19Vâng lịnh biên phòng, chạnh niềm viễn thú:
Dưới cữa nực mùi chung đảnh, chạnh nhớ khi chén rượu rót đầu gành;
20Trong nhà rạng vẽ áo xiêm, chạnh nhớ thuở tấm cầu phong trước gió.
Bưng khuâng kẻ khuất với người còn,
21Mường tượng thầy đâu thì tớ đó.
Mịt mù gió trốt thổi dấu tha hương,
22Nhắp nháng lửa trơi soi miền cổ độ.
Miền phố định tới nơi còn dung ruổi, ngụ lòng một lễ chén rượu thoi vàng;
23Chữ giữ đồng gẫm lại cũng đinh ninh, chung mặt ba quân cờ điều nón đỏ.
Cảm phu đều tới trước khuyên mời,
24Linh thính hãy nghe trong dặn dỗ.
Trường chiến tranh hoặc là oan hay chẳng, cũng không nệ kẻ trước, người sau, hàng trên, lớp dưới, khao tế rồi lại biểu tấu cho,
Lương chỡ che đành chẳng hẹp nơi nao, hoặc ai còn cha già, mẹ yếu, vợ góa, con côi, an tập hết cũng châu tuất đủ.
Hình thể đâu đến ngày tháng Thuấn, Nghiêu.
25Hài cốt đó cũng nước non Than, Vũ.
Máy huyền tạo thăng trầm chưa tỏ, linh thì về cố quận để hương thơm đèn sáng, kiếp tái sanh lại nhờ cữa tiền quân;
26Niềm tôn thân, sanh tử chẳng quên, linh thì hộ bổn triều cho biển lặng sông trong, dõi muôn kỷ không day nền bửu tộ.
Ngỏ hưởng.