南翁夢錄序(胡濙) Nam Ông mộng lục tự (Hồ Huỳnh)

夫日星昭布,雲霞絢麗,天之文也;川嶽流峙,草木華實,地之文也;名物典章,禮樂教化,人之文也。普天率土,星羅碁布之國,莫不咸有是文焉。今工部 左侍郎交南黎公澄孟源,性資明敏,才學優長,與予有同朝之好。間以南翁夢錄一帙見示,且徵言以弁其端。

Phù nhật tinh chiêu bố, vân hà huyến lệ : thiên chi văn dã ; xuyên nhạc lưu trì, thảo mộc hoa thực : địa chi văn dã ; danh vật điển chương, lễ nhạc giáo hóa : nhân chi văn dã. Phổ thiên suất thổ, tinh la kỳ bố chi quốc, mạc bất hàm hữu thị văn yên. Kim Công bô Tả Thị lang Giao Nam Lê công Trừng Mạnh Nguyên, tính tư minh mẫn, tài học ưu trưởng, dữ dư hữu đồng triều chi hiếu. Gian dĩ Nam Ông mộng lục nhất pho kiến thị, thả trưng ngôn dĩ biện kì đoan.


予 徧閱之,南翁乃孟源自號,其所著之文,簡約而 謹嚴,豐瞻而愽洽,緣情指事,陳義措辭,痛快切實,無非叙君臣之等,明彝倫之懿,闡性命道術之奧,紀家國起廢之由。以至褒賛節義,則感慨激烈,可以厲風 俗,稱揚述作,則清新俊逸,可以怡性情,與夫孟源自叙餘慶所鍾云:出自幽谷,遷于喬木;生逢聖世,深沐堯仁,而有此奇遇之說,予有以知孟源之心, 以為偏方之異跡,今得敷張於中夏,徧聞於郡邑,抑且播聲光於後世,苟非叨聖朝亞卿之寵任,則帙中所錄者,將泯滅於遐荒而無聞矣。今茲遭際,遂獲流傳於不 朽,豈不為存沒之大幸也歟?因嘉其能旌善而篤於仁厚,故不辭其請而書此,以冠于篇端云。

正統五年歲庚申,十月望日,資德大夫正治上卿禮部尚書毘陵胡濙書。

Dư biến duyệt chi, Nam Ông nãi Mạnh Nguyên tự hiệu, kì sở trứ chi văn, giản ước nhi cẩn nghiêm, phong chiêm nhi bác hợp, duyên tình chỉ sự, trần nghĩa thố từ, thống khoái thiết thực, vô phi quân thần chi đẳng, minh di luân chi ý, xiển tính mệnh đạo thuật chi áo, kỷ gia quốc khởi phế chi do. Dĩ chí bao tán tiết nghĩa, tắc cảm khái khích liệt, khả dĩ lệ phong tục, xứng dương thuật tác, tắc thanh tân tuấn dật, khả dĩ di tính tình, dữ phù Mạnh Nguyên tự tự dư khánh sở chung vân "xuất tự u cốc, thiên vu kiều mộc, sinh phùng thánh thế, thâm mộc Nghiêu nhân, nhi hữu thử kỳ ngộ" chi thuyết, dư hữu dĩ tri Mạnh Nguyên chi tâm, dĩ vi thiên phương chi dị tích, kim đắc phu trương ư trung hạ, biến văn ư quận ấp, ức thả bá thanh quang ư hậu thế, cẩu phi thao thánh triều Á khanh chi sủng nhiệm, tắc pho trung sở lục giả, tương dẫn diệt ư hà hoang nhi vô văn hĩ. Kim tư tao tế, toại hoạch lưu truyền ư bất hủ, khởi bất vi tồn một chi đại hạnh dã dư ? Nhân gia kì năng tinh thiên nhi đốc ư nhân hậu, cố bất từ kì thỉnh nhi thư thử, dĩ quán vu thiên đoan vân.

Chính Thống ngũ niên tuế Canh Thân, thập nguyệt vọng nhật. Tư đức Đại phu Chính trị Thượng khanh Lễ bộ Thượng thư Tì Lăng Hồ Huỳnh tự.

Dịch nghĩa

sửa
Bài tựa sách "Nam Ông mộng lục"(Hồ Huỳnh)


Kìa trời sao tỏa sáng, mây ráng phô màu, văn của trời đó ; núi non bủa vây, cỏ cây hoa trái, văn của đất đó ; danh vật điển chương, lễ nhạc giáo hóa, văn của người đó. Khắp trong trời đất, có biết bao nhiêu nước, không đâu không có nền văn minh. Nay Công bộ Tả Thị lang Giao Nam Lê công Trừng tự Mạnh Nguyên, tư tính thông minh, tài học hơn người, với tôi có giao hiếu đồng triều. Mới rồi đem Nam Ông mộng lục một cuốn cho xem, lại nhờ dùng lời viết tựa.

Tôi xem một lượt, biết Nam Ông là tự hiệu của Mạnh Nguyên, dùng đó để viết văn, ngắn gọn mà nghiêm cẩn, cao nhã mà hòa hợp, theo tình kể việc, lấy ý đặt lời, thú vị thiết thực, lại không quên thứ bậc vua tôi, làm rõ được ý tứ luân thường, nêu lên chỗ sâu sa của tính mệnh đạo thuật, ghi chép con đường hưng phế của nhà nước. Đến như ca ngợi tiết nghĩa thì cảm khái bừng bừng, có thể lấy đó mà uốn nắn phong tục ; biểu dương thuật tác thì siêu thoát thanh tân, có thể lấy đó mà nuôi dưỡng tính tình. Với câu sau, Mạnh Nguyên kể lại phúc trạch của tổ tiên ông hun đúc cho hậu duệ "ra tự hang núi, dời đến cây cao[1], sinh cùng thời thánh, tắm gội nhân Nghiêu nên có chuyện kì ngộ này", tôi hiểu được tâm ấy của Mạnh Nguyên, đó là dấu tích lạ của một phương, nay được phô trương ở trung hạ, nổi danh khắp quận ấp, hoặc giả thanh danh còn để lại tới hạu thế. Nếu không được thánh triều sủng nhiệm, cho làm Á khanh thì những ghi chép trong sách này sẽ mai một ở chốn hoang xa, không ai nghe đến. Nay nhờ tri ngộ, sách sẽ được lưu truyền bất hủ, há chẳng phải là dịp may lớn trước nguy cơ mai một đó sao ? Nhân vì đánh giá cao việc biểu dương cái thiện, dốc lòng vào nhân hậu của ông nên tôi đã không chối từ, viết vài lời vào đầu thiên sách vậy.

Ngày rằm tháng mười, năm Canh Thân, niên hiệu Chính Thống thứ năm (1440).
Tư đức Đại phu, Chính trị Thượng khanh, Lễ bộ Thượng thư, Hồ Huỳnh người ở Tì Lăng, đề tựa.

南翁夢錄序(胡元澄) Nam Ông mộng lục tự (Hồ Nguyên Trừng)

語稱:十室之邑,必有忠信。如丘者焉,况交南人物,自昔蕃盛,豈可以偏方而遽謂無人乎哉!前人言行才調,多有可取者,至于兵火之間,書籍灰 燼,遂令泯滅無聞,可不惜歟?興思及此,尋繹舊事,遣亡殆盡,猶得百中之一二,集以為書,名之曰南翁夢錄,以備觀覽,一以揚前人之片善,一以資君子之 異聞。雖則區區于小說,亦將少助于燕談。

Ngữ xưng "Thập nhất chi ấp, tất hữu trung tín như Khâu giả yên", huống Giao Nam nhân vật tự tích phồn thịnh, khởi khả dĩ thiên phương nhi cừ vị vô nhân hồ tai. Tiền nhân ngôn hành, tài liệu, đa hữu khả thủ giả, chí ư binh, hỏa chi gian, thư tịch hôi tận, toại linh dẫn diệt vô văn, khả bất tích dư ? Hưng tư cập thử, tầm dịch cựu sự, di vong đãi tận, do đắc bách trung chi nhất nhị; tập dĩ vi thư, danh chi viết Nam Ông mộng lục dĩ bị quan lãm, nhất dĩ dương tiền nhân chi phiến thiện, nhất dĩ tư quân tử chi dị văn, tuy tắc khu khu ư tiểu thuyết, diệc tương thiểu trợ ư yến đàm.


或問予曰:君所書者,皆是善人,平生聞見,無不善乎?予應之曰:善者我所樂聞,故能記之。不善者非無,吾不 記耳。曰:錄以夢名,其義安在?曰:彼中人物,昔甚繁華,時遷事變,畧無遺迹,惟我一人,知而道之。非夢而何?達人君子,其知之乎?南翁澄自謂 也。

正統三年戊午,重九日,正議大夫資治尹工部左侍郎交南黎澄孟源序

Hoặc vấn dư viết: "Quân sở thư giả, giai thị thiện nhân, bình sinh văn kiến vô bất thiện hồ ?" Dư ứng chi viết: "Thiện giả, ngã sở lạc văn, cố năng ký chi, bất thiện giả phi vô, ngô bất ký nhĩ ". Viết: "Lục dĩ mộng danh, kỳ nghĩa an tại ?" Viết "Bỉ trung nhân vật, tích thậm phồn hoa, thời thiên sự biến, lược vô di tích, duy ngã nhất nhân tri nhi đạo chi, phi mộng nhi hà? Đạt nhân quân tử kỳ tri chi hồ? Nam Ông, Trừng tự vị dã".

Chính Thống tam niên, Mậu Ngọ, Trùng Cửu nhật. Chính nghị Đại phu, Tư Trị doãn, Công bộ Tả Thị lang, Giao Nam Lê Trừng Mạnh Nguyên tự.

Dịch nghĩa

sửa
Bài tựa sách "Nam Ông mộng lục"(Hồ Nguyên Trừng)


Luận ngữ có câu "Trong một cái ấp mười nhà, tất có người trung tín như Khâu này vậy", huống gì Giao Nam nhân vật phồn thịnh, chẳng lẽ vì là nơi xa xôi mà vội cho rằng không có nhân tài ? Người xưa, lời nói , việc làm, ghi chép, có nhiều điều khả thủ, nhưng qua cơn binh lửa, sách vở cháy sạch, thành ra bị mất mát không được nghe lại, chẳng đáng tiếc lắm sao ? Nghĩ tới điều này, [tôi bèn] tìm ghi việc cũ, thất lạc gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai ; góp lại thành sách, tên là Nam Ông mộng lục, phòng khi có người xem tới ; một là để biểu dương việc thiện nhỏ của tiền nhân, một là để cung cấp chuyện quái dị cho quân tử , tuy chỉ là tầm thường trong tiểu thuyết, nhưng cũng để góp vui lúc yến đàm.

Hoặc hỏi tôi rằng "Những người ngài ghi, đều là kẻ thiện, vậy thì bình sinh nghe thấy lại không có chuyện bất thiện ư ?" Tôi trả lời rằng "Chuyện thiện, tôi vốn thích nghe, nên mới ghi được, bất thiện không phải không có, chẳng qua không nhớ được thôi". Lại hỏi "Lấy tên là mộng, ý nghĩa ở đâu ?" Trả lời "Nhân vật trong này, trước rất phồn hoa, đời thay việc đổi, dấu xưa không còn, còn mỗi một người biết chuyện mà thôi, không phải mộng là gì ? Đạt nhân quân tử có hiểu cho không ? Nam Ông, tên tự của Trừng vậy",

Ngày Trùng Cửu, năm Mậu Ngọ, niên hiệu Chính Thống thứ ba (1438).
Chính nghị Đại phu, Tư Trị doãn, Công bộ Tả Thị lang, Giao Nam Lê Trừng Mạnh Nguyên đề tựa.

   




Chú thích

  1. Đây là thơ trong bài Phạt mộc, phần Tiểu nhã của Kinh Thi. Hồ Nguyên Trừng trích câu này trong thiên Thi triệu dư khương, kể về tổ tiên bên ngoại của Hồ Quý Ly là Nguyễn Thánh Huấn