Hung niên - 凶年
của Nguyễn Khuyến, do Wikisource dịch từ Văn ngôn

Kỳ I - 其一

sửa
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa Bản dịch của Wikisource

我生之後嘆逢罹,
世亂人窮歲又饑。
息息夜蟲如自訴,
嗷嗷霜雁欲何之。
幸因儒等為先丐,
久慣蔾根未皺皮。
憂悶愴然將著筆,
古人乞食已成詩。

Ngã sinh chi hậu thán phùng ly,
Thế loạn nhân cùng tuế hựu ky.
Tức tức dạ trùng như tự tố,
Ngao ngao sương nhạn dục hà chi.
Hạnh nhân nho đẳng vi tiên cái[1],
Cửu quán[2] lê căn vị trứu bì.
Ưu muộn sảng nhiên tương trước bút,
Cổ nhân khất thực[3] dĩ thành thi.

Năm mất mùa
Cuối đời, thương ôi ta gặp cảnh khó:
Đời loạn người cùng lại năm đói
Tiếng côn trùng tấm tức ban đêm như tố cáo
Tiếng nhạn kêu sương như muốn bỏ đi nơi nào
May mắn cấp bậc nhà nho được xếp trên ăn mày
Thói quen cũ, người có tài chưa nhăn mặt
Lo buồn thương cảm đem bút ra viết
Bắt chước người xưa xin ăn bằng thơ.

Cuối đời ta gặp bước khó khăn
Đời loạn người cùng đói cả năm
Dế rúc đêm thanh như oán trách
Nhạn kêu sương lạnh đổi nơi nằm
Nhà nho may được trên hành khất
Thói cũ người tài mặt chửa nhăn
Thương cảm người xưa đem bút viết
Thơ thành mong đổi lấy miếng ăn.

Kỳ V - 其五

sửa
Nguyên văn chữ Hán Phiên âm Hán Việt Dịch nghĩa Bản dịch của Wikisource

旱甚冬前穀不收,
淒風今夏冷如秋。
墦間剩粥曾餐未,
甕底留醅肯醉無。
國運弱為家運厄,
大人應作豕人呼。
莫嘆尋常饑餓甚,
時窮方是見真吾。

Hạn thậm đông tiền cốc bất thu,
Thê phong kim hạ lành như thu.
Phiền gian thặng chúc tằng xan vị,
Ủng để lưu phôi khẳng túy vô.
Quốc vận nhược vi gia vận ách,
Đại nhân ưng tác thỉ nhân hô.
Mạc thán tầm thường cơ ngạ thậm,
Thời cùng phương thị kiến chân ngô.

Mùa đông trước hạn hán nặng, không được thu hoạch lúa
Hè này gió lạnh như mùa thu
Cháo thừa nơi mồ mả chưa từng ăn
Cấn rượu đáy hũ không chịu uống
Vận nước yếu hèn nên vận nhà khốn khó
Ông lớn bằng lòng gọi làm "ông lợn"
Chớ vội than phiền ngày ngày quá đói
Lúc cùng mới là lúc thấy ta thật là ta.

Đông qua hạn nặng lúa không bông
Gió lạnh hè này tựa thu đông
Trên mả, cháo thừa chưa từng húp
Đáy vò, rượu cấn đáng say không?
Yếu hèn vận nước, vận nhà khốn
Thôi thì ông lớn "ông lợn" chung
Thôi đừng than thở khi quá đói
Lúc cùng mới thấy tớ thật "ông".

   




Chú thích

  1. Nhà Nguyên ghét đạo nho, khi thôn tính được Giang Nam rồi, chia người ở đấy làm 10 hạng. Nhà nho bị liệt vào hạng thứ 9, chỉ trên hạng thứ 10 là ăn mày
  2. Thói cũ: Phong cách nhà nho (nd)
  3. Đào Tiềm đời Tấn khi đã từ quan về, nhà nghèo túng, có lần phải làm thơ đưa cho bạn để xin ăn


   Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:
 

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.

 
Bản dịch:
 

Tác phẩm này được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công-Chia sẻ tương tự 3.0 Chưa chuyển đổi, cho phép sử dụng, phân phối, và tạo tác phẩm phái sinh một cách tự do, miễn là không được thay đổi giấy phép và ghi chú rõ ràng, cùng với việc ghi công tác giả gốc.

 
 

Tác phẩm này được phát hành theo các điều khoản của Giấy phép Tài liệu Tự do GNU.


 

Điều khoản sử dụng của Wikimedia Foundation yêu cầu văn bản được cấp phép theo GFDL được nhập sau tháng 11 năm 2008 cũng phải cấp phép kép với một giấy phép tương thích khác. "Nội dung chỉ khả dụng trong GFDL không được phép" (§7.4). Điều này không áp dụng cho phương tiện phi văn bản.