Biên dịch:Ba Ẩn sĩ

(Đổi hướng từ Ba Ẩn sĩ)
Ba Ẩn sĩ  (1886) 
của Leo Tolstoy, do Wikisource dịch từ tiếng Anh
Ba Ẩn sĩ là một truyện ngắn của văn hào Nga Leo Tolstoy, sáng tác năm 1885, đăng trên tuần san Niva năm 1886. Câu chuyện kể về ba ẩn sĩ sống trên một hoang đảo để cầu nguyện và suy ngẫm về 'sự cứu rỗi linh hồn mình'. Qua truyện ngắn này, Tolstoy trình bày ý nghĩa thật của sự cầu nguyện thể hiện qua cung cách đơn sơ nhưng đầy đức tin của ba ẩn sĩ thất học, trái ngược với cách cầu nguyện đúng nề nếp nhưng khô cứng của vị giám mục uyên bác.

Một câu chuyện cổ lưu truyền trong vùng Volga

Khi cầu nguyện đừng lặp đi lặp lại như người ngoại, vì họ tưởng cầu nhiều lời sẽ được nhậm. Vậy, đừng bắt chước họ, vì Cha biết các con cần gì trước khi các con cầu xin.
Phúc âm Ma-thi-ơ 6: 7,8.


Một giám mục đi từ Arkhangelsk đến tu viện Solovetsky. Trên tàu, ngoài giám mục còn có nhiều người hành hương. Thời tiết tốt, chuyến đi thuận buồm xuôi gió. Những người hành hương tụ tập trên boong tàu ăn uống và tán gẫu. Giám mục cũng lên boong; khi đang đếm bước, ông nhận thấy một nhúm người túm tụm chỗ gần mũi tàu, chăm chú nghe một ngư dân vừa chỉ tay ra biển vừa kể chuyện. Giám mục dừng lại, nhìn theo hướng người đàn ông đang chỉ, nhưng chẳng thấy gì ngoài làn nước lấp lánh dưới ánh mặt trời. Ông đến gần, lắng nghe; nhưng khi người đàn ông nhìn thấy giám mục thì vội cất mũ chào rồi im lặng. Những người khác cũng cất mũ cúi chào.

‘Đừng bận tâm, các bạn’, vị giám mục cất tiếng trấn an, ‘ta đến để nghe chuyện mà thôi.’

‘Ông ấy đang kể cho chúng con nghe về những ẩn sĩ,’ một người đáp lời, đó là một thương nhân, anh dạn dĩ hơn những người còn lại.

‘Những ẩn sĩ nào?’ giám mục hỏi lại, cùng lúc ông đi về phía hông tàu rồi đến ngồi trên một thùng gỗ. ‘Kể cho ta nghe với. Ta cũng thích nghe. Anh đang chỉ tay về cái gì đó?’

‘Hòn đảo nhỏ mà chúng ta đang thấy đó,’ người đàn ông trả lời, đưa tay chỉ một chấm nhỏ chếch về hướng phải. ‘Đó là hòn đảo các ẩn sĩ đang sống để trông đợi sự cứu rỗi.’

‘Đảo nào đâu?’ giám mục hỏi lại. ‘Ta chẳng thấy gì cả.’

‘Kia kìa, ở đằng xa, xin ngài nhìn theo tay con. Ngài có thấy một đám mây nhỏ? Ngay dưới nó hơi chếch về phía trái, nó chỉ là một vạch mờ. Đó là hòn đảo.’

Giám mục chăm chú nhìn nhưng vẫn không thấy gì ngoài mặt nước lung linh dưới ánh mặt trời.

'Ta chẳng thấy gì cả,’ ông nói, ‘Nhưng những ẩn sĩ ấy là ai mà sống ở đó?’

‘Họ là những người thánh thiện,’ người đánh cá trả lời.

‘Từ lâu rồi con vẫn nghe chuyện về họ, nhưng chưa bao giờ tận mắt thấy họ cho đến cuối năm vừa rồi.’

Người đánh cá kể, trong một lần ra khơi đánh cá anh bị kẹt lại trong đêm trên đảo mà không biết mình đang ở đâu. Đến sáng, khi đang thơ thẩn tình cờ anh tới một cái chòi đất và gặp một ông lão đứng gần đấy. Liền khi ấy, hai người nữa bước ra, họ cho anh ăn, hong khô quần áo, vật dụng của anh, và giúp anh sửa thuyền.

‘Trông họ như thế nào?’ giám mục hỏi.

‘Một người thì nhỏ thó, lưng còng. Ông ấy mặc áo thầy tu và trông rất già; có lẽ đã hơn trăm tuổi, con đoán thế. Ông già đến nỗi túm râu bạc của ông nhuốm màu xanh lá. Ông luôn mỉm cười, mặt ông sáng như thiên thần từ trên trời xuống. Người thứ hai cao hơn ông lão trước, nhưng cũng rất già. Ông mặc một chiếc áo nông dân rách nát. Râu ông rậm và ngả sang màu vàng xám. Ông rất lực lưỡng. Khi con chưa kịp đến giúp thì ông đã lật thuyền của con lại như thể nó chỉ là một xô nước nhỏ. Ông lão cũng rất tốt bụng và vui tính. Người thứ ba thì cao mảnh khảnh, hàm râu bạc của ông dài đến gối. Ông trông nghiêm nghị với hàng lông mày nổi bật; trên người ông chẳng có gì ngoài một mảnh vài quấn ngang hông.’

‘Họ có nói chuyện với anh?’ Giám mục hỏi.

‘Phần lớn thời gian họ làm việc trong im lặng, hiếm khi trò chuyện với nhau. Chỉ cần một cái nhìn của một người, hai người kia liền hiểu ý. Con hỏi vị cao mảnh khảnh rằng các cụ sống ở đây đã lâu chưa. Ông nhíu mày lằm bằm điều gì đó như thể đang tức giận; nhưng vị cao tuổi thấp bé liền cầm tay ông mỉm cười, thế là ông ấy im lặng. Còn vị cao tuổi nhất chỉ nói: ‘Xin thương xót chúng con,’ rồi mỉm cười.’

Trong khi người đánh cá say sưa kể chuyện, tàu đến gần hòn đảo.

‘Này, có thể thấy đảo rõ hơn rồi, nếu ngài vui lòng nhìn xem,’ thương nhân vừa nói vừa chỉ tay.

Giám mục nhận ra một dải màu tối sẫm – đó là hòn đảo. Chăm chú nhìn một lúc, ông rời khỏi mũi tàu, tiến đến đuôi tàu, rồi hỏi tài công:

‘Đằng kia là đảo nào vậy?’

‘Đó là đảo không tên,’ người tài công trả lời. ‘Có nhiều đảo giống như thế trên vùng biển này.’

‘Có đúng là có những ẩn sĩ sống trên đó tìm kiếm sự cứu rỗi cho linh hồn mình?’

‘Người ta nói thế, thưa ngài, nhưng con không biết như thế nào. Các ngư dân kể rằng họ đã thấy những vị ấy; nhưng cũng có thể họ đã thêu dệt.’

‘Ta muốn lên đảo để gặp họ,’ giám mục nói. ‘Con làm được không?’

‘Tàu không thể cập đảo được,’ tài công trả lời, ‘nhưng ngài có thể dùng xuồng. Xin ngài bảo thuyền trưởng.’

Thuyền trưởng được mời đến.

‘Ta muốn gặp những ẩn sĩ này,’ giám mục nói. ‘Ta dùng xuồng chèo được không?’

Thuyền trưởng cố ngăn cản.

‘Dĩ nhiên là được rồi,’ thuyền trưởng đáp, ‘nhưng phải mất nhiều thời gian. Nếu ngài cho phép, con xin thưa rằng những ông lão ấy chẳng đáng cho ngài quan tâm. Con nghe nói rằng họ là những lão già ngu ngốc, chẳng hiểu biết gì, không nói lời nào, họ chẳng khác gì loài cá biển.’

‘Ta muốn gặp họ,’ giám mục trả lời, ‘ta sẽ trả cho con công chờ đợi và cho sự cố bất thường này. Hãy cho ta một chiếc xuồng.’

Chẳng làm gì khác hơn được, thuyền trưởng ra lệnh. Thủy thủ hạ buồm, tàu hướng về hòn đảo. Người ta đem một chiếc ghế đặt ở mũi tàu cho giám mục ngồi. Hành khách cũng tụ tập về mũi tàu, chăm nhìn về hòn đảo. Bây giờ những người tinh mắt có thể nhận ra những tảng đá trên đảo, rồi thấy cái chòi đất.

Cuối cùng, một người nhận ra các ẩn sĩ. Thuyền trưởng đem ống nhòm ra quan sát, rồi trao nó cho giám mục.

‘Thấy được rồi. Có ba người đang đứng trên bờ. Kia kìa, hơi chếch về phía phải của tảng đá lớn.’

Giám mục vớ lấy ống nhòm, định vị, cuối cùng ông cũng thấy ba người đàn ông: một người cao, một người thấp, người còn lại nhỏ thó và còng lưng, họ cùng đứng trên bờ nắm tay nhau.

Thuyền trưởng quay sang giám mục.

‘Tàu không thể đến gần hơn nữa, thưa giám mục. Nếu ngài muốn vào bờ thì phải dùng xuồng nhỏ, tàu phải neo tại đây thôi.’

Người ta buông neo và hạ buồm. Một chiếc xuồng được hạ thủy, những tay chèo vào xuồng, giám mục xuống thang vào chỗ ngồi trên xuồng. Họ vung tay chèo, chiếc xuồng lướt nhanh về hòn đảo. Đến khi cách bờ chỉ vừa một tầm ném, họ nhìn thấy ba ông lão: người cao chỉ có một tấm khố quấn ngang hông, người thấp hơn khoác lên mình chiếc áo choàng nông dân rách nát, còn người cao niên còng lưng thì mặc chiếc áo thầy tu cũ mèm – ba người cùng đứng cầm tay nhau.

Chiếc xuồng tấp sát bờ để giám mục bước lên.

Ba ông lão gập người cúi chào, và khi giám mục ban phép lành họ càng cúi mình thấp hơn nữa. Rồi vị giám mục bắt đầu trò chuyện với họ.

‘Ta đã nghe nói rằng các con là những người thánh thiện, sống ở đây để tìm kiếm sự cứu rỗi linh hồn mình, cầu nguyện với Chúa cho những người khác. Ta, một đầy tớ không xứng đáng của Chúa, được ơn gọi, theo ơn thương xót của Thiên Chúa, để chăn giữ và dạy dỗ bầy chiên của Ngài. Ta ước mong được gặp các con, những tôi tớ của Chúa, và làm hết sức mình để dạy dỗ các con.’

Ba ông lão nhìn nhau mỉm cười, nhưng không nói gì.

‘Hãy cho ta biết’, vị giám mục tiếp, ‘các con làm gì để tìm kiếm sự cứu rỗi, và bằng cách nào mà các con có thể phụng sự Chúa trên hòn đảo này.’

Ẩn sĩ thứ hai thở dài, nhìn người lớn tuổi nhất là người rất già. Ông lão rất già mỉm cười, rồi thưa:

‘Chúng con không biết cách phụng sự Chúa. Chúng con chỉ tự lo cho mình, thưa tôi tớ Chúa.’

‘Nhưng bằng cách nào mà các con cầu nguyện với Chúa?’ vị giám mục hỏi.

‘Chúng con cầu nguyện như thế này,’ ẩn sĩ trả lời, ‘Chúa có ba vị, chúng con có ba người, xin thương xót chúng con.’

Rồi thì ba người ngước mắt lên trời, đồng thanh lặp lại:

‘Chúa có ba vị, chúng con có ba người, xin thương xót chúng con!’

Giám mục mỉm cười.

‘Các con đã nghe nói về giáo lý Ba Ngôi,’ ông giảng giải. ‘Nhưng các con cầu nguyện không đúng cách. Các con, những con người tin kính, đã chiếm được tình cảm của ta. Ta hiểu các con muốn làm vui lòng Chúa, nhưng các con không biết cách phụng sự Ngài. Đó không phải là cách đúng để cầu nguyện; hãy lắng nghe ta, ta sẽ dạy cho các con. Ta sẽ dạy các con, không phải theo cách của ta, mà là cách Chúa dạy dỗ trong Kinh Thánh để mọi người cầu xin Ngài.’

Rồi giám mục bắt đầu giảng giải cho những ẩn sĩ về cách Thiên Chúa tự mặc khải Ngài với loài người; dạy cho họ về Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Linh.

‘Chúa Con đã đến thế gian,’ ông nói, ‘để cứu rỗi loài người, và đây là cách Ngài dạy chúng ta cầu nguyện. Hãy lắng nghe và lặp lại theo ta: ‘Lạy Cha chúng con’.

Ông lão thứ nhất lặp lại theo vị giám mục, ‘Lạy Cha chúng con’, người thứ hai nói ‘Lạy Cha chúng con’, người thứ ba nói ‘Lạy Cha chúng con’, --- ‘ở trên trời,’ vị giám mục dạy tiếp.

Ẩn sĩ thứ nhất lặp lại, ‘ở trên trời’, nhưng ẩn sĩ thứ hai bắt đầu lắp bắp; ẩn sĩ cao mảnh khảnh thì không cách chi lặp lại cho đúng được: râu của ông che kín miệng nên không thể nói rõ lời. Trong số họ, vị ẩn sĩ rất già, không còn chiếc răng nào, cũng chỉ đọc được với giọng thều thào.

Giám mục lặp lại lần nữa, ba ông lão lặp lại theo. Vị giám mục ngồi trên một tảng đá, ba ông lão đứng trước mặt ông, chăm chăm nhìn vào miệng giám mục, cố lặp lại mọi lời ông nói ra. Suốt cả ngày dài giám mục kiên nhẫn dạy, lặp đi lặp lại đến hai mươi, ba mươi, rồi đến hàng trăm lần, các ông lão cũng kiên nhẫn lặp lại mọi lời của giám mục. Họ cứ lắp bắp, vấp váp, ông nhẫn nại sửa họ, hết lần này đến lần khác.

Vị giám mục không chịu rời khỏi họ cho đến khi ông dạy họ thuộc toàn bài Kinh Lạy Cha, không chỉ lặp lại theo ông mà còn có thể tự mình đọc hết bài kinh. Ẩn sĩ thứ hai là người thuộc bài nhanh nhất. Giám mục yêu cầu ông lão đọc lại nhiều lần, cuối cùng hai người kia cũng thuộc theo.

Trời sẩm tối, mặt trăng như mọc lên từ mặt nước, giám mục đứng lên, trở về tàu. Khi ông từ biệt những ông lão, họ cung kính cúi mặt sát đất tiễn đưa ông. Ông nâng họ dậy, ôm hôn từng người, dặn dò họ cầu nguyện như ông đã dạy. Rồi ông lên xuồng trở lại tàu.

Ngồi trên xuồng, giám mục nghe rõ giọng nói của ba ẩn sĩ đọc vang Kinh Lạy Cha. Khi đến gần tàu, dù không còn nghe rõ tiếng của họ, ông vẫn có thể nhìn thấy dưới ánh trăng, ba ông lão đứng cạnh nhau, y như lúc ông rời khỏi đảo, người thấp nhất đứng giữa, người cao nhất bên phải, người cao vừa bên trái. Ngay khi giám mục lên tàu, người ta vội nhổ neo giăng buồm. Những cánh buồm ngậm gió, thuyền băng băng ra khơi. Giám mục ngồi ở đuôi tàu chăm nhìn về hòn đảo đang xa dần. Trong một lúc, ông vẫn có thể nhìn thấy các ẩn sĩ, nhưng giờ họ đã khuất khỏi tầm nhìn, dù ông vẫn thấy hòn đảo.

Cuối cùng thì hòn đảo cũng biến mất, chỉ còn mặt biển chập chờn dưới ánh trăng.

Những người hành hương đang chìm trong giấc ngủ, sự im ắng bao phủ boong tàu. Giám mục không muốn ngủ, ông ngồi một mình ở đuôi tàu, chăm nhìn về phía hòn đảo dù không còn nhìn thấy gì, ông không ngừng suy nghĩ về những con người thánh thiện ấy. Chắc họ đã thỏa lòng lắm khi được dạy thuộc bài cầu nguyện chung; ông tạ ơn Chúa vì đã sai ông đến dạy dỗ và giúp đỡ những con người tin kính ấy.

Giám mục vẫn ngồi đó, vừa suy nghĩ vừa chăm nhìn ra biển hướng về hòn đảo đã không còn nhìn thấy được. Ánh trăng lung linh, lấp lánh trên mặt nước dợn sóng. Đột nhiên, ông nhìn thấy một vật trắng và sáng xuất hiện trong dải ánh trăng cắt ngang mặt nước. Đó là con hải âu, hay là cánh buồm của một chiếc thuyền nhỏ ẩn hiện dưới ánh trăng? Giám mục chăm chú nhìn.

‘Chắc hẳn là một chiếc thuyền buồm đi sau mình’ ông nhủ thầm ‘nhưng nó đang mau chóng bắt kịp ta. Chỉ một phút trước nó còn ở đằng xa, nhưng giờ đã rất gần. Không thể nào là một chiếc thuyền, bởi vì ta không thấy cánh buồm nào; nhưng dù là gì đi nữa, nó cũng đang đuổi theo ta và bắt kịp ta.’

Ông không thể nào nhận ra nó là gì. Không phải thuyền, không phải chim, cũng không phải cá! Nó to lớn hơn hình dạng một con người; vả lại, người thì không thể di chuyển trên biển như thế.

Giám mục đứng lên, kêu tài công:

‘Nhìn kìa, ông bạn, cái gì thế? Cái gì thế?’ giám mục lặp lại câu hỏi dù nay ông đã thấy rõ họ là ai – ba ẩn sĩ đang chạy trên mặt nước, áo họ trắng sáng, râu họ óng ánh, họ lẹ làng áp sát con tàu.

Người lái tầu kinh hãi buông tay lái, há hốc nhìn.

‘Ôi, Lạy Chúa! Những vị ẩn sĩ chạy trên mặt nước đuổi theo chúng ta như thể họ đang đi trên đất liền!’

Những hành khách nghe anh nói, vội nhỏm dậy, tràn về đuôi tàu. Họ thấy những ẩn sĩ đang đi tới, tay trong tay, hai người bên ngoài vẫy tay ra hiệu cho tàu dừng lại. Ba người lướt trên mặt nước mà không cần cử động đôi chân. Trước khi con tàu kịp dừng, họ đã đến sát, ngẩng đầu, cả ba cùng cất tiếng:

‘Thưa tôi tớ của Chúa, chúng con quên mất lời ngài dạy. Hễ còn đọc lời kinh thì chúng con còn nhớ, nhưng khi ngừng đọc trong một chốc, những lời ấy rơi rụng và vỡ vụn. Chúng con chẳng nhớ được gì. Xin dạy lại cho chúng con.’

Giám mục cúi gập người bên hông tàu, nói:

‘Thưa những người của Thiên Chúa, lời cầu nguyện của quý ngài đã đến với Chúa. Tôi không xứng đáng. Xin cầu nguyện cho chúng tôi, những con người tội lỗi.’

Giám mục kính cẩn nghiêng mình trước ba ông lão; họ quay đi băng mình ra biển. Một tia sáng chiếu xuống nơi họ mất dạng, cho đến khi trời hửng sáng.

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.

 
Bản dịch:

Tác phẩm này được phát hành theo Giấy phép Creative Commons Ghi công-Chia sẻ tương tự 3.0 Chưa chuyển đổi, cho phép sử dụng, phân phối, và tạo tác phẩm phái sinh một cách tự do, miễn là không được thay đổi giấy phép và ghi chú rõ ràng, cùng với việc ghi công tác giả gốc.

 

Tác phẩm này được phát hành theo các điều khoản của Giấy phép Tài liệu Tự do GNU.


Điều khoản sử dụng của Wikimedia Foundation yêu cầu văn bản được cấp phép theo GFDL được nhập sau tháng 11 năm 2008 cũng phải cấp phép kép với một giấy phép tương thích khác. "Nội dung chỉ khả dụng trong GFDL không được phép" (§7.4). Điều này không áp dụng cho phương tiện phi văn bản.