Báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế năm 2008
LỜI TỰA
Vì sao các báo cáo được soạn thảo
Báo cáo này được Bộ Ngoại giao đệ trình lên Quốc hội, theo quy định tại mục 102(b) của Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế (IRFA) ban hành năm 1998. Theo quy định của luật này, Ngoại trưởng Mỹ, với sự hỗ trợ của Đại sứ Lưu động về Tự do Tôn giáo Quốc tế, sẽ trình lên Quốc hội “Báo cáo Thường niên về Tự do Tôn giáo Quốc tế, bổ sung cho các báo cáo mới nhất về Nhân quyền với những thông tin chi tiết về các vấn đề liên quan tới tự do tôn giáo quốc tế”.
Báo cáo được soạn thảo như thế nào?
Để chuẩn bị các dự thảo báo cáo đầu tiên, các đại sứ quán Mỹ thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm thông tin từ các quan chức chính phủ và các chức sắc tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ, các nhà báo, các nhà hoạt động nhân quyền, các nhóm tôn giáo và giới học thuật. Quá trình thu thập thông tin có thể rất mạo hiểm. Cán bộ ngoại giao Hoa Kỳ thường phải nỗ lực hết mình, đôi khi ở trong những hoàn cảnh rất nguy hiểm để tiến hành điều tra báo cáo về vi phạm nhân quyền, giám sát các cuộc bầu cử, và hỗ trợ những người gặp nguy hiểm vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Văn phòng Tự do Tôn giáo Quốc tế phối hợp thu thập và phân tích thông tin cho báo cáo về tình hình từng nước, dựa trên nguồn tin của các văn phòng khác trong Bộ Ngoại giao, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ khác, nguồn tin từ các quan chức chính phủ nước ngoài, đại diện Liên Hợp Quốc, các tổ chức và các thể chế quốc tế và khu vực khác, giới học giả và truyền thông. Khi soạn thảo và biên tập báo cáo tình hình các nước, Văn phòng Tự do Tôn giáo Quốc tế cũng tham khảo ý kiến của các chuyên gia về các vấn đề phân biệt và ngược đãi tôn giáo, tham khảo các chức sắc tôn giáo thuộc nhiều tín ngưỡng khác nhau và các chuyên gia về luật pháp. Nguyên tắc chỉ đạo của Văn phòng là đảm bảo mọi thông tin liên quan được đánh giá khách quan, toàn diện và công bằng nhất có thể.
Bản báo cáo sẽ được các bộ, ngành, cơ quan trong Chính phủ Mỹ sử dụng để xây dựng chính sách, triển khai công tác ngoại giao, hỗ trợ, đào tạo và phân bổ các nguồn lực khác, đồng thời giúp xác định những nước vi phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc dung túng “các vụ vi phạm đặc biệt nghiêm trọng” quyền tự do tôn giáo, để đưa những nước này vào danh sách cần quan tâm đặc biệt.
Về việc sử dụng từ ngữ
Khi báo cáo này khẳng định một chính phủ “nhìn chung là tôn trọng” quyền tự do tôn giáo trong giai đoạn báo cáo tường trình, có nghĩa là chính phủ đó đã cố gắng bảo vệ quyền tự do tôn giáo một cách đầy đủ nhất. Do vậy, cụm từ “nhìn chung là tôn trọng” thể hiện mức tôn trọng cao nhất đối với quyền tự do tôn giáo nêu tại báo cáo này. Cụm từ “nhìn chung là tôn trọng” được sử dụng vì việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo là một nỗ lực liên tục, không thể nói một cách chính xác chính phủ nào tôn trọng đầy đủ quyền này trong cả năm thực hiện báo cáo, ngay cả trong những hoàn cảnh tốt nhất. Lời cảm ơn
Báo cáo năm 2008 được thực hiện từ 1/7/2007 đến 30/6/2008, phản ánh một năm đầy nỗ lực của hàng trăm cán bộ và nhân viên ngoại giao tại Bộ Ngoại giao và các sứ quán Hoa Kỳ ở nước ngoài. Chúng tôi xin cảm ơn các viên chức ngoại giao tại các sứ quán và lãnh sự quán của Hoa Kỳ ở nước ngoài vì đã giám sát và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo, và theo dõi chi tiết tình hình tự do tôn giáo. Bên cạnh nỗ lực của họ, chúng tôi ghi nhận sự lao động miệt mài và đấu tranh không mệt mỏi cho quyền tự do tôn giáo của các nhân viên Văn phòng Tự do Tôn giáo Quốc tế, những người đã giúp hoàn thành bản báo cáo này, trong đó có Clarissa Adamson, Judson Birdsall, Mary Anne Borst, Randy Brandt, Natalia Buniewicz, Barbara Cates, Keeley Chorn, Warren Cofsky, A. Jack Croddy, Doug Dearborn, Daniel DeVougas, Lauren Diekman, Lauren Doll, Augustine Fahey, Carrie Flinchbaugh, Albert Gombis, Hakim Hasan, Nancy Hewett, Victor Huser, Emilie Kao, Justin Kern, Gwendolyn Mack, Safia Mohamoud, Joannella Morales, Fatema Munis, Aaron Pina, David Rodearmel, Abigail Skeans, Lauren Smith, H. Knox Thames, Alexandra Tovar, Gregory Trunz, Raizza Ty, and Jessica Vu. Công việc của những cá nhân này thúc đẩy sự nghiệp tự do, đảm bảo độ chính xác của báo cáo và mang đến hy vọng cho những con người bị đàn áp trên toàn thế giới.
GIỚI THIỆU
“ | Mọi người đều có quyền tự do tư duy, lương tri và tôn giáo; quyền này bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo hoặc tín ngưỡng và tự mình hoặc cùng với những người khác công khai tôn giáo, tín ngưỡng thông qua giảng đạo, hành đạo, thờ cúng hoặc hành lễ ở nơi công cộng hoặc riêng tư. | ” |
—Điều 18, Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu |
“ | Quyền tự do tôn giáo hiện đang bị vi phạm, trong một số trường hợp bị vi phạm ngày càng nghiêm trọng ở nhiều nước trên thế giới. Hơn một nửa dân số thế giới đang sống dưới những chế độ hạn chế ngặt nghèo hoặc thậm chí cấm công dân học tập, tin theo tín ngưỡng, hành lễ và tự do hành đạo theo sự lựa chọn của họ. Các quyền tự do tôn giáo của các tín đồ và các cộng đồng tôn giáo đang bị vi phạm do có sự bảo trợ và dung túng của chính phủ. | ” |
—Đạo luật Tự do Tôn giáo 1998 |
Năm nay là năm kỷ niệm ngày ra đời của hai văn kiện có ý nghĩa quan trọng về tự do tôn giáo, đó là Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu năm 1948 và Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 1998. Trong sáu thập kỷ qua, Điều 18 của Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu là một chuẩn mực để chúng ta đánh giá mức độ tôn trọng quyền tự do tôn giáo thực sự của các chính phủ, đồng thời là biểu tượng hy vọng cho những ai bị sách nhiễu và ngược đãi. Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế được thông qua mười năm trước thể hiện sự quan tâm và định hướng mới đối với ưu tiên lâu đời của Mỹ là thúc đẩy tự do tôn giáo. Nỗ lực tăng cường này đã cho chúng ta những kết quả tốt. Rất nhiều tín đồ đã được hưởng những quyền tự do mới tìm thấy và ở một số nước chính sách tôn giáo của các chính phủ đã có những cải thiện. Tuy nhiên, dù đã có những tiến bộ, nhưng thực tiễn được ghi nhận trong Đạo luật và được trích dẫn ở trên vẫn là sự thể hiện chính xác nhất tình hình tự do tôn giáo ở nhiều nước trên thế giới.
Vì quyền tự do tôn giáo tiếp tục bị xâm phạm và liên tục xảy ra các vụ đàn áp thẳng tay, nên Chính phủ Hoa Kỳ kiên trì thúc đẩy tôn trọng quyền con người phổ quát này. Đạo luật Tự do Tôn giáo củng cố vị trí ưu tiên của mục tiêu chính sách đối ngoại quan trọng này thông qua bổ nhiệm vị trí Đại sứ Lưu động phụ trách Tự do Tôn giáo Quốc tế và thành lập Văn phòng Tự do Tôn giáo Quốc tế tại Bộ Ngoại giao và yêu cầu ra phúc trình thường niên này. Với những công cụ này và các công cụ khác có mục đích cổ xúy và bảo vệ tự do tôn giáo, Hoa Kỳ khuyến khích việc tuân thủ các cam kết và nghĩa vụ quốc tế, lên án các vụ vi phạm tự do tôn giáo, và thúc đẩy tôn trọng tự do tôn giáo với tư cách một quyền cơ bản của mọi người.
Báo cáo thường niên về Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2008 là một trong những sản phẩm rõ nhất về nỗ lực này và là bằng chứng về sự hợp tác của rất nhiều nhân viên Bộ Ngoại giao tại các sứ quán và các lãnh sự quán trên toàn thế giới, tại các vụ khu vực và chức năng và tại Văn phòng Tự do Tôn giáo Quốc tế. Tất cả họ đã phấn đấu không mệt mỏi để hoàn thành báo cáo toàn diện này. Với độ dài hơn 800 trang và đề cập tình hình của 198 nước và vùng lãnh thổ, Báo cáo thường niên lần này là một bản tường trình đầy đủ nhất. Tuy nhiên, báo cáo không thể thực hiện được nếu không có sự đóng góp quan trọng của các nhóm tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ, và các cá nhân những người đã cống hiến cả cuộc đời để bảo vệ phẩm giá con người. Chúng ta cũng đánh giá cao sự ủng hộ liên tục của Quốc hội Mỹ. Tóm lại, chúng ta coi Báo cáo thường niên này là sự mở rộng hơn nữa sự ủng hộ của nhân dân Mỹ đối với những người đang âm thầm đấu tranh cho các quyền tự do tôn giáo của họ trên toàn thế giới.
Sự trùng hợp ngày kỷ niệm ra đời Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế và Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu nhắc nhở chúng ta về tính phổ quát của các quyền con người mà những văn kiện này bảo vệ. Trọng tâm về vấn đề tự do tôn giáo là Điều 18 của Tuyên ngôn Nhân quyền, theo đó quy định việc bảo vệ quyền bên trong tức là quyền được tin theo một tôn giáo, tín ngưỡng nào đó, và quyền bên ngoài tức là quyền hành đạo và quyền được chia sẻ, quyền cá nhân được lựa chọn tôn giáo, tín ngưỡng và quyền được làm điều đó mà không sợ bị chính phủ can thiệp hay làm tổn hại. Đáng chú ý là năm 1948, chính Charles Malik, một nhà ngoại giao Ả rập người Li-băng và Eleanor Roosevelt đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng điều khoản này. Malik đã nói rằng Tuyên ngôn Toàn cầu nhắc nhở mọi người rằng:
“ | …con người được sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền; tạo hóa ban cho họ lý trí và lương tri, họ không thể bị giam cầm làm nô lệ, không bị bắt giữ tùy tiện, được coi là vô tội cho đến khi bị chứng minh là có tội; con người không thể bị xâm phạm, con người có quyền tự nhiên là được tự do tư duy, tự do lương tri, tự do tôn giáo và tự do bày tỏ. | ” |
Nhận thức được sự đồng thuận toàn cầu về tầm quan trọng của quyền tự do tôn giáo, Hoa Kỳ kêu gọi tất cả các chính phủ thực hiện các nghĩa vụ và cam kết quốc tế của mình mà không nhất thiết phải theo quan điểm của Hoa Kỳ về vấn đề này. Bên cạnh Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu, quyền tự do tôn giáo còn được bảo vệ theo nhiều văn kiện quốc tế khác, trong đó có Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị, Tuyên bố về Xóa bỏ mọi hình thức không khoan dung và Phân biệt đối xử về lý do tôn giáo, tín ngưỡng, Thỏa ước Helsinki, Công ước châu Âu về bảo vệ Nhân quyền và các quyền Tự do cơ bản, Hiến chương châu Phi về quyền con người, và Công ước châu Mỹ về Nhân quyền. Các mục liên quan đến quyền tự do tôn giáo trong các văn kiện này có thể tìm thấy trong phần phụ lục của Báo cáo Thường niên này. Mặc dù năm nay là năm kỷ niệm một thập kỷ phấn đấu không mệt mỏi thực hiện Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế và 60 năm thực hiện các cam kết quốc tế về nhân quyền, chúng ta kỷ niệm những ngày này với nhận thức sâu sắc rằng vẫn còn rất nhiều việc chưa được giải quyết.
Tổng thống Bush gần đây đã phát biểu tại Nhà Trắng nhân kỷ niệm lần thứ 10 ngày ban hành Đạo luật Tự do Tôn giáo Quốc tế như sau:
“ | Đạo luật này mà hôm nay chúng ta kỷ niệm được xây dựng dựa trên truyền thống vốn đã định hình nên dân tộc chúng ta. Khi các nhà lập quốc đưa ra Tuyên ngôn Nhân quyền, thì quyền tự do đầu tiên mà họ đề cao chính là quyền tự do tôn giáo. Họ nhận thức được rằng quyền tự do cơ bản nhất của con người là quyền tự do hành đạo…Họ được cầu nguyện để được sống ở một đất nước mà quyền tự do được tôn trọng. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia, quyền bày tỏ tự do lại bị kiểm duyệt bởi sự đàn áp, độc tài và không khoan dung. | ” |
Lẽ dĩ nhiên, thúc đẩy tự do tôn giáo không chỉ là mục tiêu của Chính phủ Hoa Kỳ, mà đó là một mục tiêu chung của nhiều chính phủ khác, của các tổ chức tôn giáo và các tổ chức phi chính phủ, và đặc biệt là của những người đang bị hại chỉ vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo của họ.
Hôm nay với vinh dự được trình bản Báo cáo Thường niên lần thứ bảy này, tôi cảm thấy ngỡ ngàng trước sự dũng cảm của nhiều cá nhân trên toàn thế giới, những người đã đứng lên đấu tranh cho tín ngưỡng của họ, ủng hộ quyền tự do tôn giáo và không chịu lùi bước trước bạo lực và trả thù. Đó chính những con người mà chúng ta phải hỗ trợ và là những người mà báo cáo này hướng tới. Tôi cũng rất vinh dự trong hơn sáu năm qua được làm việc với đội ngũ những người tận tâm, cổ xúy cho tự do tôn giáo của Văn phòng Tự do Tôn giáo Quốc tế. Những thành công mà chúng ta chứng kiến trong suốt thời kỳ này là minh chứng cho sự tận tụy của họ.
Vẫn còn nhiều việc phải làm và vì chúng ta nhận thức được rằng còn hàng triệu người khác đang bị chính phủ của họ tước bỏ quyền được tự do theo đạo và hành đạo, nên Hoa Kỳ sẽ tiếp tục kiên trì theo đuổi việc xây dựng và bảo vệ các quyền tôn giáo cho người dân ở mọi nơi. Chúng ta thực sự mong muốn rằng nỗ lực của chúng ta và của những người khác đấu tranh cho sự nghiệp này, sẽ mang lại cho họ niềm hy vọng mới đồng thời đóng góp vào việc phổ biến quyền tự do quý báu này mọi nơi trên trái đất.
John V. Hanford,
Đại sứ Lưu động về Tự do Tôn giáo Quốc tế
VIỆT NAM
Hiến pháp quy định quyền tự do tôn giáo; tuy nhiên Chính phủ vẫn tiếp tục hạn chế các hoạt động có tổ chức của các nhóm tôn giáo.
Trong khoảng thời gian báo cáo này tường trình, đã có những cải thiện đáng kể về tôn trọng quyền tự do tôn giáo và hành đạo. Chính phủ triển khai mạnh mẽ Pháp lệnh Tôn giáo, tín ngưỡng năm 2004 và các nghị định bổ sung về chính sách tôn giáo ban hành năm 2005 (khuôn khổ pháp lý tôn giáo của Chính phủ). Các giáo hội mới đã được đăng ký tại 64 tỉnh, thành trên cả nước; một số giáo đoàn được đăng ký ở cấp quốc gia; công dân nhìn chung được phép hành đạo một cách tự do hơn. Giáo hội Công giáo, nhiều giáo đoàn Tin lành và các giáo đoàn nhỏ hơn cho biết việc tụ họp và hành đạo được cải thiện và nhìn chung Chính phủ đã nới lỏng hạn chế về việc bổ nhiệm tăng lữ mới. Giáo hội Công giáo cho biết Chính phủ đã chấp thuận cho thành lập một đại chủng viện nữa.
Mặc dù có những tiến bộ trong thời gian báo cáo này đề cập, song việc thực hiện khuôn khổ pháp lý về tôn giáo vẫn còn một số vấn đề, chủ yếu ở cấp tỉnh và làng xã. Những vấn đề này bao gồm sự chậm trễ - trong một số trường hợp còn không thực hiện - trong việc đăng ký các hội thánh Tin Lành ở miền Bắc và Tây Bắc; áp dụng không nhất quán các thủ tục đăng ký giáo đoàn và các quy định pháp luật khác; hạn chế việc gia nhập các giáo đoàn; khó khăn khi muốn mở các khóa đào tạo mục sư Tin Lành. Một số chính quyền cấp tỉnh tỏ ra tích cực hơn, trong khi chính quyền ở các địa phương khác có vẻ như không coi việc thực hiện một cách tích cực và nhất quán khuôn khổ pháp lý về tôn giáo là một ưu tiên.
Chính phủ vẫn lo ngại rằng một số nhóm sắc tộc thiểu số ở Tây Nguyên đang điều hành một “Giáo hội Đề-ga” tự phong, có tin là tổ chức này kết hợp hành đạo với hoạt động chính trị và kêu gọi các nhóm sắc tộc thiểu số ly khai. Chính phủ cũng hạn chế chức sắc của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ( không được công nhận và khẳng định sẽ không công nhận tổ chức này với ban lãnh đạo hiện nay. Chính phủ duy trì vai trò giám sát chủ chốt các tôn giáo được công nhận. Các nhóm tôn giáo sẽ vấp phải những rào cản lớn nhất nếu tham gia vào các hoạt động mà Chính phủ cho là hoạt động chính trị hoặc thách thức quyền lực của chính phủ. Chính phủ tiếp tục cấm và hạn chế tham gia một giáo phái không được công nhận của Đạo Hòa Hảo. Giới chức chính phủ đã bỏ tù một phật tử người Khmer thiểu số vì bị cáo buộc tham gia tổ chức các cuộc biểu tình đòi đất đai ở đồng bằng sông Cửu Long năm 2007.
Tuy nhiên, về tổng thể, việc tôn trọng quyền tự do tôn giáo đã được cải thiện trong khoảng thời gian báo cáo này tường trình. Việc tham gia các hoạt động tôn giáo trong cả nước tiếp tục gia tăng, và các tín đồ Tin Lành ở Tây Nguyên tiếp tục cho biết tình hình đã có tiến bộ đáng kể. Chính phủ tiếp tục cho đăng ký thành lập các giáo hội Tin Lành và các điểm nhóm trên cả nước. Tuy nhiên, hàng trăm đơn đăng ký khác vẫn chưa được giải quyết, đặc biệt ở Tây Nguyên.
Trong giai đoạn báo cáo này tường trình, Chính phủ đã công nhận ở cấp quốc gia hai Giáo hội Tin Lành là Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam và Hội Thánh Baptist Ân Điển, và một nhóm Phật giáo nữa là Tịnh độ Cư sĩ Phật hội. Cũng trong thời gian báo cáo này tường trình, Chính phủ đã cấp giấy chứng nhận đăng ký cấp quốc gia cho bốn tổ chức Tin Lành và hai nhóm tôn giáo nữa là Minh Lý Đạo Tam Tông Miếu và Phật Đường Nam Tông Minh Sư Đạo. Trong giai đoạn thực hiện báo cáo này, Ban Tôn giáo Chính phủ và một số đại diện của Ban này ở cấp tỉnh đã tích cực giải quyết những vấn đề và những quan ngại liên quan đến tôn giáo. Tín đồ Tin Lành và Công giáo khắp miền Bắc cho biết có chuyển biến tốt trong thái độ của hầu hết các quan chức đối với tôn giáo của họ và nhìn chung các tín đồ Tin Lành và Công giáo được phép tụ họp cầu nguyện mà không bị sách nhiễu, mặc dù đôi khi vẫn xảy ra những vụ việc lẻ tẻ.
Trong khoảng thời gian báo cáo này tường trình, ít xảy ra các vụ bạo lực hoặc phân biệt đối xử xã hội vì lý do tín ngưỡng. Tháng 10/2007, một nhóm tín đồ Tin Lành ở tỉnh Trà Vinh cho biết họ bị khoảng 50 người thiểu số Khmer đánh đập; các nhà thờ của họ bị hủy hoại. Cùng ngày hôm đó, khi được gọi tới trụ sở công an xã, họ lại bị một nhóm khoảng 200 người địa phương đánh đập tiếp ngay trước mặt một hòa thượng người Khmer và cán bộ xã. Nhiều tín đồ Công giáo và Tin Lành cũng cho biết những người theo đạo Thiên chúa không được xem xét cất nhắc vào các vị trí cao trong chính quyền do có sự phân biệt không chính thức trong Chính phủ.
Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội và Tổng lãnh sự quán Mỹ tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn duy trì đối thoại thường xuyên với các quan chức cấp cao cũng như các quan chức chuyên trách của Chính phủ nhằm thúc đẩy hơn nữa quyền tự do tôn giáo. Các quan chức Hoa Kỳ cũng gặp gỡ và tiếp xúc thường xuyên với các chức sắc tôn giáo, kể cả các nhà hoạt động tôn giáo nằm trong danh sách theo dõi của Chính phủ. Đại sứ Mỹ và các quan chức Mỹ khác, kể cả Đại sứ Lưu động về Tự do Tôn giáo Quốc tế, đều bày tỏ lo ngại với Thủ tướng, Phó Thủ tướng, các thành viên chính phủ, lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam và các quan chức cao cấp ở địa phương về việc các tổ chức tôn giáo gặp khó khăn trong việc đăng ký và được công nhận, những khó khăn mà các tín đồ Tin Lành ở Tây Nguyên và Tây Bắc phải đối mặt và những hình thức hạn chế tự do tôn giáo khác. Trong các buổi hội kiến với những người đồng nhiệm trong thời gian báo cáo này tường trình, Tổng thống Bush và Ngoại trưởng Rice đều kêu gọi cải thiện hơn nữa quyền tự do tôn giáo. Tự do tôn giáo cũng được đề cập đến trong Đối thoại Nhân quyền song phương Mỹ-Việt năm 2008.
Phần I. Các tôn giáo
Việt Nam có diện tích khoảng 127.000 dặm vuông với dân số khoảng 83,5 triệu người. Ước tính cho thấy khoảng hơn một nửa dân số theo Đạo Phật. Giáo hội Công giáo chiếm 8-10% dân số, một số tổ chức của đạo Cao Đài chiếm 1,5-3% dân số, giáo phái Hòa Hảo chiếm 1,5-4% dân số, các giáo đoàn Tin Lành chiếm 0,5-2% dân số, và một tổ chức Hồi giáo chiếm chưa đầy 0,1% dân số. Còn lại phần lớn công dân tự nhận mình không theo tôn giáo nào, mặc dù nhiều người trong số họ vẫn giữ các tín ngưỡng truyền thống như thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc.
Nhiều phật tử hành lễ hỗn hợp của Phật giáo Đại thừa (Mahayana Buddhism) với đạo Lão và Nho giáo mà đôi khi được gọi là “tam giáo”. Ban Tôn giáo Chính phủ ước tính khoảng 10 triệu người (12% dân số) theo Phật giáo Đại thừa, phần lớn là người Kinh, sống ở khắp nơi trên cả nước, đặc biệt là các khu vực đông dân cư ở đồng bằng châu thổ phía bắc và nam. Ở một số vùng cao có ít các phật tử hơn, mặc dù việc người Kinh di cư đến các vùng này đang phần nào làm thay đổi sự phân bố. Nhóm Khơ-me thiểu số ở miền Nam theo Phật giáo dòng Nam tông. Với số lượng khoảng hơn 1 triệu người, hầu hết họ sống tập trung ở châu thổ sông Cửu Long. Giáo hội Phật giáo Việt Nam được công nhận chính thức ra đời năm 1981. Chính phủ không công nhận tính hợp pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Ước tính cả nước có khoảng 8 triệu tín đồ Công giáo, mặc dù con số thống kê của Chính phủ là 5,9 triệu. Tín đồ Công giáo sinh sống trên khắp mọi miền đất nước, nhưng tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Nam xung quanh Thành phố Hồ Chí Minh, một vài nơi ở Tây Nguyên và ở các tỉnh phía Đông Nam Hà Nội. Trong những năm gần đây, Công giáo đã được khôi phục lại ở nhiều khu vực với nhiều nhà thờ được xây mới hoặc cải tạo lại, và số tín đồ ngày một gia tăng.
Theo con số thống kê của Chính phủ có 2,3 triệu tín đồ theo đạo Cao Đài, mặc dù các chức sắc đạo Cao Đài thường xuyên khẳng định phải có tới 5 triệu tín đồ. Các nhóm đạo Cao Đài hoạt động sôi nổi nhất ở tỉnh Tây Ninh, nơi toạ lạc ”Toà thánh” Cao đài Tây ninh, ở Thành phố Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long. Đạo Cao Đài có nhiều giáo phái riêng biệt với giáo phái lớn nhất là phái Tây Ninh, chiếm hơn một nửa số tín đồ đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài là một sự dung hợp các yếu tố của nhiều đức tin khác nhau.
Theo Chính phủ, có khoảng 1,2 triệu tín đồ Hòa Hảo, trong khi con số do những chi nhánh hải ngoại thống kê lên tới 3 triệu. Các tín đồ Hòa Hảo tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là ở các tỉnh như An Giang và Đồng Tháp, nơi mà trước năm 1975 giáo phái Hòa Hảo nổi lên với tư cách một lực lượng xã hội, chính trị, và quân sự. Ban Trị sự Hòa Hảo được Chính phủ công nhận thành lập năm 1999. Một số tín đồ Hòa Hảo theo các chi phái khác đối lập với.
Hai hội thánh Tin Lành được chính thức công nhận là Hội thánh Tin lành Việt Nam miền Nam và Hội thánh Tin lành Việt Nam miền Bắc nhỏ hơn. Hội Thánh Baptist Ân Điển và Hội Truyền giáo Cơ đốc Việt Nam cũng được công nhận chính thức. Số tổ chức Tin Lành khác cũng tăng lên, trong đó có Hội thánh dòng Mennonite Việt Nam, Hội thánh Trưởng lão ân điển Việt Nam và Hội thánh Cơ đốc Phục lâm Việt Nam (tất cả đều được chính thức công nhận), và một số tổ chức khác chưa được đăng ký. Ước tính số tín đồ Tin Lành dao động từ 500.000 theo thống kê của Chính phủ đến 1,6 triệu theo ước tính của các giáo hội. Ước tính trong thập kỷ qua, số tín đồ Tin Lành tăng 600%. Một số tín đồ cải đạo mới này thuộc các nhà thờ tại gia không đăng ký. Theo tính toán của các tín đồ, 2/3 tín đồ Tin Lành là người dân tộc thiểu số, như dân tộc H’mông, Dao, Thái và các nhóm thiểu số khác vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có Ê-đê, Gia-rai, Mơ-nông và các dân tộc khác.
Các nhà thờ Hồi giáo, phục vụ một lượng tín đồ Hồi giáo ít ỏi ở, ước tính có khoảng 50 đến 80 nghìn người hành đạo ở tỉnh miền tây An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các tỉnh duyên hải phía Nam. Chính phủ chính thức ước tính có khoảng 67 nghìn tín đồ Hồi giáo. Cộng đồng người Hồi giáo chủ yếu là người dân tộc Chăm, tuy nhiên ở Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh An Giang, có cả một số tín đồ là người Kinh di cư từ Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a và Ấn Độ. Khoảng một nửa tín đồ Hồi giáo theo dòng Sunni, nửa còn lại theo dòng Bani, một dòng đạo Hồi riêng biệt của người Chăm ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ.
Còn một số cộng đồng tôn giáo nhỏ khác, lớn nhất trong số đó là cộng đồng người Hindu. Có khoảng 50.000 người Chăm ở miền duyên hải Nam Trung Bộ theo đạo Hindu. Khoảng 4.000 người Hindu khác sống ở Thành phố Hồ Chí Minh, một số là dân tộc Chăm, nhưng phần lớn là người Ấn Độ hoặc thế hệ con cháu lai Việt-Ấn.
Uớc tính có khoảng 6.000 tín đồ theo đạo Baha’i, phần lớn tập trung ở miền Nam. Mặc dù các tín đồ đạo Baha’i có mặt tại Việt Nam trước năm 1975 nhưng trong giai đoạn 1975-1992, việc hành đạo công khai bị cấm và số tín đồ vì thế cũng giảm mạnh trong giai đoạn này.
Có khoảng 800 tín đồ của Giáo hội các thánh hữu ngày sau của Chúa Giêsu Kitô (hay còn gọi là giáo phái Mormons) sống rải rác trên cả nước, nhưng phần lớn sống ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội.
Ít nhất có 10 giáo đoàn thuộc phái Chứng nhân Giê-hô-va với số lượng khoảng vài trăm tín đồ mỗi giáo đoàn, đang hoạt động nhưng chưa đăng ký. Phần lớn những giáo đoàn này ở miền Nam với năm giáo đoàn ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Ở thành phố Hồ Chí Minh có một nhà thờ Do Thái. Mặc dù thành viên của nhà thờ này chủ yếu là Việt kiều sống ở nước ngoài, nhưng số lượng thành viên của giáo đoàn này đang tăng lên.
Khoảng 14 triệu người, chiếm khoảng 17% dân số hoặc hơn, được cho là không theo một tôn giáo có tổ chức nào cả. Một số nguồn tin khác cho rằng những người chỉ đi lễ vào những ngày lễ hội thì không phải là phật tử. Theo định nghĩa này thì số người không theo đạo sẽ cao hơn nữa, có thể lên đến 50 triệu. Không có số liệu nào thống kê về mức độ tham gia vào các nghi lễ tôn giáo chính thức, nhưng người ta cho rằng con số này vẫn tiếp tục tăng lên từ đầu những năm 1990.
Các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14% dân số. Về lịch sử, các dân tộc thiểu số giữ những tín ngưỡng truyền thống khác với người Kinh. Nhiều dân tộc thiểu số, đặc biệt là dân tộc H’mong, Dao và Gia Rai ở Tây Bắc và Tây Nguyên đã cải đạo theo Tin Lành.
Phần II. Hiện trạng về tự do tôn giáo
Khung pháp lý/chính sách
Hiến pháp, các văn bản pháp luật, và nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng năm 2003 về tôn giáo đều quy định công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2004 là văn bản pháp luật cơ bản quy định hoạt động tôn giáo. Pháp lệnh này khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, có thể theo hoặc không theo một tôn giáo nào, và nghiêm cấm việc xâm phạm quyền tự do đó. Tuy nhiên, Pháp lệnh cũng nhấn mạnh việc “lợi dụng” tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhằm mục đích “phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước” là phạm pháp và cảnh báo đình chỉ các hoạt động tôn giáo nếu ảnh hưởng tiêu cực tới các truyền thống văn hóa của dân tộc.
Pháp lệnh này tiếp tục duy trì sự quản lý và giám sát của chính phủ đối với các tổ chức tôn giáo. Theo các quy định trong pháp lệnh, các giáo đoàn phải được chính thức công nhận hoặc đăng ký; các hoạt động và chức sắc của từng giáo đoàn phải được chính quyền cấp thấp hơn chấp thuận. Việc thành lập các trường dòng, tổ chức và tuyển sinh vào các lớp học phải được các cấp chính quyền phù hợp chấp thuận. Việc phong chức linh mục hoặc các chức sắc tôn giáo khác phải được phép của chính quyền chỉ khi có liên quan đến “yếu tố nước ngoài”, chẳng hạn như Tòa thánh Vatican. Pháp lệnh cấm ép buộc cải đạo, đồng thời cũng đã nới lỏng ở một mức độ nhất định sự giám sát của chính phủ đối với tôn giáo. Ví dụ, các tổ chức tôn giáo chỉ cần thông báo với các cấp chính quyền về hoạt động hàng năm hoặc về việc phong chức hay thuyên chuyển giáo sĩ, trong khi trước đây những việc này phải được sự chấp thuận chính thức. Hơn nữa, Pháp lệnh cũng khuyến khích các nhóm tôn giáo tổ chức các hoạt động từ thiện trong lĩnh vực y tế và giáo dục, hai lĩnh vực trước đây bị hạn chế.
Tháng 2/2005, Thủ tướng ban hành “Chỉ thị về một số công tác đối với đạo Tin Lành”, kêu gọi các cấp chính quyền hỗ trợ các giáo hội Tin Lành được công nhận xây dựng nhà thờ, đào tạo và bổ nhiệm mục sư, đồng thời chỉ đạo các cấp chính quyền phải giúp đỡ những giáo đoàn chưa được công nhận đi đăng ký để họ có thể hành đạo công khai, tiến tới đáp ứng các yêu cầu để được công nhận đầy đủ. Chỉ thị hướng dẫn các cấp chính quyền ở Tây Nguyên và Tây Bắc giúp đỡ các nhóm tín đồ Tin Lành đăng ký các hoạt động tôn giáo và hành đạo tại gia hoặc tại những “địa điểm phù hợp”, ngay cả khi “họ chưa đáp ứng đủ điều kiện để thành lập một giáo đoàn chính thức. Chỉ thị cũng hướng dẫn cán bộ địa phương cho phép các “nhà thờ tại gia” chưa đăng ký được hoạt động nếu họ “cam kết tuân thủ các quy định” và họ không liên kết với các phong trào chính trị ly khai.
Tháng 3/2005, Chính phủ ra nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo (Nghị định số 22). Nghị định quy định chi tiết thủ tục để một tổ chức tôn giáo chưa được công nhận có thể đăng ký nơi thờ tự, giới giáo sĩ, các hoạt động của tổ chức, và từ đó có thể hoạt động công khai. Nghị định còn hướng dẫn thủ tục để các nhóm tôn giáo này đăng ký để được Chính phủ công nhận chính thức và hưởng thêm các quyền khác. Nghị định quy định cụ thể một tổ chức tôn giáo phải có 20 năm “hoạt động tôn giáo ổn định” ở Việt Nam mới được Chính phủ công nhận chính thức, và các hoạt động trong quá khứ có thể được tính để đạt được mức yêu cầu này. Nghị định còn quy định khung thời gian cụ thể Chính phủ xét đơn của các tổ chức tôn giáo, và yêu cầu cán bộ chuyên trách phải giải thích bằng văn bản nếu họ bị bác đơn.
Nghị định số 22 cũng quy định rõ những thủ tục mà các tổ chức tôn giáo và từng giáo đoàn phải thực hiện để được chính thức công nhận. Về nguyên tắc, các hệ phái được công nhận sẽ được phép mở cửa, hoạt động và cải tạo lại nơi thờ tự, đào tạo chức sắc tôn giáo, và được xin phép xuất bản tài liệu. Để được công nhận chính thức, trước hết hệ phái đó phải đăng ký ở cấp quốc gia. Theo khuôn khổ pháp lý, một tổ chức tôn giáo phải trải qua một số thủ tục pháp lý mới được đăng ký ở cấp quốc gia. Thứ nhất, tổ chức tôn giáo đó phải đệ đơn và được chấp thuận đăng ký ở khu vực hành chính địa phương nơi tổ chức hoạt động. Tổ chức tôn giáo phải gửi thông tin lên các cấp chính quyền liên quan về cơ cấu, lãnh đạo và hoạt động của giáo đoàn. Chính quyền có 45 ngày để chất vấn hoặc nêu quan ngại. Đăng ký ở cấp quốc gia mất 60 ngày. Ban Tôn giáo Chính phủ phải cấp giấy phép trước khi một tổ chức được xem xét đăng ký. Sau khoảng thời gian chờ đợi tối thiểu là một năm, một tổ chức đủ điều kiện có thể đệ đơn xin công nhận chính thức và phải được Chính phủ chấp thuận về lãnh đạo, cơ cấu và phạm vi hoạt động.
Nghị định 22 còn quy định cụ thể rằng các cấp chính quyền phải trả lời bằng văn bản đối với các đơn xin công nhận chính thức trong vòng 30, 45, 60 hoặc 90 ngày tùy theo mức yêu cầu. Tuy nhiên, trên thực tế hiếm khi các quan chức chính quyền tuân thủ quy định đúng khung thời hạn này. Trong trường hợp bị từ chối, văn bản phúc đáp phải nêu rõ lý do từ chối, nhưng có vẻ như quy định này cũng không được áp dụng một cách có hệ thống. Hơn thế nữa, Pháp lệnh không quy định một cơ chế cụ thể nào về việc xem xét lại, cũng như không nêu rõ lý do từ chối.
Ban Tôn giáo Chính phủ có nhiệm vụ phổ biến thông tin về khung pháp lý mới cho cơ quan chức năng các cấp từ tỉnh, quận, huyện, đến thôn xã và đảm bảo thống nhất tuân thủ khung pháp lý này. Việc triển khai khung pháp lý mới ở cấp dưới vẫn còn phức tạp. Tuy nhiên, trong thời gian báo cáo này đề cập, chính quyền trung ương và tỉnh đã tổ chức một số khóa tập huấn cho cán bộ cấp dưới về các điều luật mới để đảm bảo họ nắm được và tuân thủ đúng khung pháp lý này. Chính quyền ở một số khu vực đã tích cực huy động các chức sắc tôn giáo thực hiện những thay đổi, đặc biệt là trong việc đăng ký cho các nhóm Tin Lành và mở lại các nhà thờ bị đóng cửa ở Tây Nguyên. Chính quyền ở các khu vực khác, đặc biệt ở vùng núi Tây Bắc bị động hơn khi áp dụng những quy định mới của cấp Trung ương, mặc dù điều kiện hoạt động của các tín đồ Tin Lành trên cả nước nhìn chung đã được cải thiện trong thời gian báo cáo này tường trình.
Chính phủ không chính thức ưu tiên một tôn giáo cụ thể nào và hầu hết các cán bộ cấp cao của Đảng và Chính phủ, cũng như phần lớn các đại biểu Quốc hội đều chính thức “không theo tôn giáo nào”. Tuy nhiên nhiều quan chức Đảng và Chính phủ vẫn công khai thờ cúng tổ tiên và đi lễ chùa. Vị thế nổi trội truyền thống của đạo Phật không gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyền tự do tôn giáo của người khác, kể cả những người không muốn theo một tôn giáo nào cả.
Chính phủ chính thức công nhận các tổ chức Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài, Baha’i, Hồi giáo và Tịnh độ Cư sĩ Phật hội. Các giáo đoàn thuộc các tổ chứ tôn giáo đã đăng ký hoặc công nhận nhưng được thành lập sau khi Khuôn khổ pháp lý về tôn giáo có hiệu lực cũng phải đăng ký. Một số Phật tử, tín đồ Tin Lành, Hòa Hảo và Cao Đài khác không tham gia các tổ chức tôn giáo đã đăng ký hoặc được Chính phủ công nhận.
Vào cuối thời gian báo cáo này tường trình, Chính phủ cho biết đã công nhận tổng số 19 tổ chức tôn giáo thuộc 7 tôn giáo được công nhận (Phật giáo, Hồi giáo, Công giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài và Tịnh độ Cư sĩ Phật hội). Chính phủ cũng đã cho 10 tổ chức tôn giáo đăng ký cấp quốc gia gồm năm nhóm tôn giáo khác nhau và năm hệ phái Tin Lành.
Việt Nam không có ngày lễ tôn giáo quốc gia.
Chính phủ không cho phép giảng dạy về tôn giáo trong các trường công. Tuy nhiên, chính phủ cho phép giới tăng lữ được dạy tại các trường đại học những môn mà họ có đủ trình độ. Các hòa thượng được giảng tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, trường chính trị chính của Đảng Cộng sản. Một số nữ tu và ít nhất một linh mục được dạy tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh. Họ không được mặc trang phục tôn giáo khi giảng bài hoặc xưng là người tu hành.
Các nhóm Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo và Phật giáo được phép giảng dạy về tôn giáo cho trẻ em. Hoạt động giảng dạy Công giáo được phép tiến hành vào cuối tuần hoặc các buổi tối ở hầu hết các vùng và gia tăng trong những năm gần đây tại các giáo hội trên cả nước. Các Phật tử Nam Tông người Khmer và các tín đồ Hồi giáo người Chăm thường xuyên tổ chức các lớp học tôn giáo và ngôn ngữ bên ngoài giờ học chính khóa tại chùa hoặc nhà thờ của họ. Các nhóm tôn giáo không được phép điều hành trường tư, ngoại trừ các trường mầm non. Thần học không được giảng dạy một cách chính thức tại các trường.
Những biện pháp hạn chế tự do tôn giáo
Chính phủ yêu cầu các tổ chức tôn giáo phải đăng ký hoạt động và dùng quy định này để ngăn cấm và cản trở tín đồ tham gia những tổ chức tôn giáo chưa được công nhận, bao gồm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và một số nhóm Tin Lành, Hòa Hảo và Cao Đài.
Chính phủ tiếp tục phản đối nỗ lực hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không được công nhận và hạn chế việc đi lại của các chức sắc Giáo hội này. Các nhà ngoại giao nước ngoài được tới thăm Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang và một số chức sắc Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất khác. Trong thời gian báo cáo này tường trình, Thích Quảng Độ đã có dịp gặp gỡ với các thành viên khác của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất. Thích Quảng Độ và một số chức sắc khác của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất được giữ liên lạc với các cơ sở ở nước ngoài. Tuy nhiên, lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất ở các tỉnh ở miền nam liên tục bị chính quyền địa phương theo dõi và hạn chế đi lại cũng như gặp gỡ nhau.
Hành động của chính phủ và trở ngại từ bộ máy công quyền dẫn đến những hạn chế đối với quyền tự do và sự phát triển của tôn giáo. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo quy định trong Hiến pháp tiếp tục được giải thích và thực hiện không đồng bộ. Ở một số vùng, cán bộ địa phương cho phép tín đồ được hoạt động tương đối tự do; ở một số tỉnh khác các tín đồ đôi khi bị cán bộ địa phương sách nhiễu.
Do thiếu quy trình pháp lý đúng đắn và sự kiểm soát thiếu nhất quán, nên các hoạt động tôn giáo phụ thuộc vào cán bộ địa phương có thẩm quyền.. Trong một số trường hợp, có tin là cán bộ địa phương nói với các chức sắc tôn giáo rằng luật của nhà nước không áp dụng đối với thẩm quyền của họ. Trong các trường hợp khác, cùng một luật nhưng các tỉnh lại áp dụng khác nhau. Ví dụ, tỉnh Gia Lai ở Tây Nguyên theo sát các chính sách của Chính phủ và đăng ký tất cả các điểm nhóm” của Hội thánh Tin lành Việt nam miền Nam trong tỉnh, làm chậm lại khả năng họ được công nhận trong tương lai. Trong khi đó tại các tỉnh giáp ranh là Đắc Lắc và Bình Phước, nhiều “điểm nhóm” của Hội thánh Tin lành Việt nam miền Nam vẫn chưa được đăng ký. Trong một số trường hợp, các nhóm Tin Lành được công nhận và chưa được công nhận tránh được sự sách nhiễu ở địa phương và có thể lật ngược được những quyết định tiêu cực của địa phương nếu họ thỉnh cầu lên chính quyền cấp cao hơn. Mặc dù địa điểm tụ họp của Hội thánh Truyền giáo Ekklesia Phục hưng tại Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận được giấy chứng nhận đăng ký năm 2006, nhưng 5 địa điểm tụ họp khác ở Hà Tây lại không được chấp nhận.
Hàng trăm giáo đoàn thuộc Hội thánh Tin lành Việt nam miền Bắc đã nộp đơn đăng ký hoạt động trong thời gian báo cáo này tường trình nhưng hầu hết hồ sơ đăng ký chưa được giải quyết. Lý do khiến việc đăng ký chậm chễ hoặc bị bác đơn đăng ký thường là cản trở hành chính, chẳng hạn như chưa đúng thủ tục hoặc khai chưa đúng mẫu, hoặc thông tin chưa đầy đủ. Đôi khi các nhà chức trách địa phương đưa ra những lý do mơ hồ về an ninh hoặc nói rằng thẩm quyền chính trị của họ có thể bị đe dọa hoặc xung đột sẽ xảy ra giữa những tín đồ truyền thống và những người mới cải đạo sang Thiên chúa giáo ở một số khu vực. Mặc dù trong thời gian báo cáo này tường trình, một số giáo đoàn ở Tây Bắc đã đăng ký được nhưng nhiều việc còn phải làm để tiến hành đăng ký đối với các giáo đoàn Tin Lành và Công giáo ở đây.
Những cản trở khác đối với sự phát triển và đào tạo tôn giáo vẫn còn. Các tổ chức tôn giáo được chính thức công nhận gặp một số khó khăn khi muốn nhận hoặc xuất bản tài liệu giảng dạy, mở rộng cơ sở đào tạo, truyền bá tín ngưỡng, xây dựng nơi thờ tự mới, xuất bản tài liệu tôn giáo, mở rộng đào tạo giới tăng lữ do yêu cầu ngày càng tăng từ các giáo đoàn. Tuy nhiên, so với những năm trước Chính phủ tiếp tục nới lỏng những biện pháp hạn chế này.
Trong số những vướng mắc cụ thể có việc Hội thánh Tin lành Việt nam miền Bắc khiếu nại đòi đất đai nhưng chưa được giải quyết, gây trở ngại cho việc xây dựng một trung tâm đào tạo mục sư. Bên cạnh đó, chính quyền tỉnh Điện Biên, Lai Châu và Sơn La không cho đăng ký các giáo xứ ở địa phương, còn chính quyền tỉnh Hà Giang không trao quyền cư trú hợp pháp cho một linh mục giáo xứ.
Ở một số tỉnh, các nhà thờ tại gia được yêu cầu phải cung cấp danh sách tất cả những người hành đạo như một thủ tục trong quá trình đăng ký hoạt động. Điều này trái với quy định pháp lý về tôn giáo. Tình hình này có vẻ diễn ra phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long nhưng cũng rất đáng lưu ý ở tỉnh Thanh Hóa thuộc vùng Bắc Trung bộ. Trong một số trường hợp, các chính quyền đã bỏ yêu cầu này sau khi bị các nhóm đăng ký phản đối; trong một số trường hợp khác yêu cầu này vẫn được giữ nguyên, cản trở quá trình đăng ký.
Chính phủ yêu cầu tất cả các nhà sư, kể cả các nhà sư Khmer Krom theo Phật giáo Nam Tông phải được chấp thuận và hoạt động trong khuôn khổ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam được công nhận chính thức. Số lượng các học viên Phật giáo do Ban Tôn giáo quản lý và giới hạn, mặc dù số lượng các học viện Phật giáo ở các tỉnh và địa phương tăng lên nhiều trong những năm gần đây ngoài một số học viện tương đương với trường đại học.
Ở đồng bằng sông Cửu Long, các nguồn tin đáng tin cậy cho biết ít nhất 10 hòa thượng Khmer đã bị tước lễ phục và bị phạt, bị giam hoặc bị bắt tại chùa vì đã tham gia vào những cuộc biểu tình chống chính quyền hồi đầu năm 2007.
Chính phủ tiếp tục phản đối hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không được công nhận và hạn chế việc đi lại của các chức sắc Giáo hội này, trừ một số ngoại lệ. Tháng 8/2006, Chính phủ cho phép Hòa thượng Thích Huyền Quang đến Thành phố Hồ Chí Minh để chữa bệnh trong hai tháng, nhưng năm 2007 lại cản trở không muốn cho ông trở lại đây. Tháng 4/2008,Giáo hội Phật giáo Việt nam thống nhất cho biết một số hòa thượng ở tỉnh Lâm Đồng bị đuổi ra khỏi một ngôi chùa và sau đó ngôi chùa này được trao cho Giáo hội Phật giáo Việt nam quản lý. Trong một trường hợp khác, một sư nữ tại văn phòng đại diện của Giáo hội Phật giáo Việt nam thống nhất ở tỉnh Khánh Hòa bị sách nhiễu từ đầu tháng 3/2006 và có tin là bị buộc ra khỏi chùa nơi bà xây dựng. Các chức sắc ở Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu được tổ chức lễ Phật đản vào tháng 5/2008. Khi Hòa thượng Thích Huyền Quang của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất từ trần tại tu viện ở tỉnh Bình Định ngày 5/7/2008, nhiều hòa thượng Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất, trong đó có Thích Quảng Độ, được phép tới Bình Định để thăm ông vào những ngày cuối đời và hành lễ tại lễ tang của ông ngày 11/7/2008 với sự có mặt của rất đông công an.
Giáo hội Công giáo điều hành bảy đại chủng viện với hơn 1.000 đại chủng sinh, cộng với một khóa đào tạo đặc biệt dành cho những học viên “lớn tuổi hơn”. Tất cả học viên đều phải được chính quyền địa phương chấp thuận trước khi nhập học và trước khi được phong chức linh mục. Giáo hội cho rằng số lượng học viên được thụ phong hiện không đủ để phục vụ dân số Công giáo đang ngày càng tăng. Họ muốn mở thêm nhiều đại chủng viện và tuyển mộ học viên thường xuyên hơn nhưng các chức sắc cho biết Giáo hội không đủ khả năng làm việc đó. Năm 2008, Giáo hội mở một trung tâm mục vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh để đào tạo những người làm trợ tế hoặc đảm nhận những vai trò khác không phải thụ phong. Nhu cầu nghiên cứu thần học đang vượt quá mong đợi và trung tâm đã hoạt động ở mức độ tối đa.
Chính phủ tiếp tục giám sát và đã kiểm soát được, ở những mức độ thành công khác nhau, giới chức sắc và các hoạt động tôn giáo thông qua các Ban Tôn giáo ở cấp trung ương và địa phương. Ví dụ, về pháp lý Chính phủ vẫn duy trì quyền phủ quyết đối với việc Va-ti-căng bổ nhiệm các giám mục. Tuy nhiên, trong giai đoạn báo cáo này tường trình, thực tế Chính phủ đã hợp tác với Giáo hội Công giáo trong việc bổ nhiệm giám mục.
Không có quy định chính thức nào cấm việc cải đạo. Tuy nhiên, nhiều người cải đạo ngại việc xin làm lại chứng minh thư nhân dân trong đó ghi nhận tôn giáo mới của họ vì thủ tục quá phức tạp hoặc họ sợ bị chính quyền trừng phạt. Một số báo cáo cho biết cán bộ địa phương ở các vùng nông thôn tiếp tục cản trở việc cải đạo sang Tin Lành bằng cách đe dọa là họ sẽ gặp khó khăn khi xin các giấy tờ liên quan hoặc bị cắt phúc lợi xã hội và giáo dục.
Trong tài liệu tập huấn của Ban Tôn giáo Chính phủ năm 2006 dành cho cán bộ địa phương ở miền Tây Bắc lại có những lời lẽ miệt thị Đạo Tin Lành và chỉ thị cho cán bộ khuyến khích những người mới cải đạo sang Tin Lành quay về tín ngưỡng truyền thống của họ. Sau những cam kết với các nhà ngoại giao và các đại diện nước ngoài, Chính phủ cho biết tài liệu tập huấn đó đã được chỉnh sửa vài lần và những lời lẽ gây tranh luận đó cũng đã bị cắt bỏ, và thừa nhận nội dung đó không phù hợp với các quy định. Vào cuối thời gian báo cáo này tường trình, phiên bản mới nhất năm 2007 của tài liệu tập huấn này đang được xem xét, chỉnh sửa.
Điều 35 Nghị định 22 quy định các nhóm truyền giáo hải ngoại phải được chính quyền cho phép mới được tiến hành các hoạt động truyền đạo. Các hoạt động đó phải diễn ra dưới sự bảo trợ của một tổ chức tôn giáo trung ương hoặc địa phương. Nghị định này ngăn cản việc truyền đạo công khai ngoài các trung tâm thờ tự đã được công nhận. Một số nhà truyền giáo đã đến thăm Việt Nam bất chấp quy định cấm chính thức này và đã tiến hành một số hoạt động truyền đạo không chính thức.
Chính sách của chính phủ không cho phép thành viên thuộc các nhóm tôn giáo không chính thức được công khai phát ngôn về tín ngưỡng của họ, tuy nhiên một số tín đồ tiếp tục đào tạo tôn giáo và hành lễ mà không bị sách nhiễu. Tín đồ thuộc các tổ chức tôn giáo đã đăng ký được phép công khai tín ngưỡng của mình và có thể thuyết phục những người khác theo tôn giáo của họ tại những nơi thờ tự đã đăng ký, nhưng họ không được làm việc đó ở những nơi khác. Chính phủ kiểm soát và theo dõi tất cả các hình thức tụ họp nơi công cộng, trong đó có tụ họp tổ chức các hoạt động tôn giáo. Tuy nhiên, trong thời gian báo cáo này tường trình, một số cuộc tụ họp tôn giáo quy mô lớn cũng đã được phép tổ chức.
Mặc dù không phải chính sách chính thức của Chính phủ nhưng các tín đồ Thiên chúa giáo cho biết những ai theo Công giáo hoặc Tin Lành không được xem xét để cất nhắc vào các vị trí cấp cao trong Đảng và Chính phủ.
Trong giai đoạn báo cáo này tường trình, Chính phủ tiếp tục giám sát và cản trở hoạt động của một số nhóm tôn giáo vì hoạt động chính trị của họ. Những điều khoản về an ninh quốc gia và đoàn kết dân tộc ghi trong Hiến pháp quan trọng hơn các điều luật và quy định về tự do tôn giáo. Những quy định này được áp dụng để ngăn cản các buổi tụ họp tôn giáo và phổ biến tín ngưỡng tôn giáo cho các nhóm sắc tộc thiểu số. Bộ Luật hình sự sửa đổi năm 1997 quy định các hình phạt đối với tội danh được định nghĩa rất mơ hồ, trong đó có tội “cố ý phá hoại sự đoàn kết dân tộc” thông qua “chia rẽ những người theo đạo và không theo đạo”. Chính phủ tiếp tục hạn chế đáng kể hoạt động có tổ chức của các nhóm tôn giáo độc lập và những cá nhân bị coi là mối đe dọa đối với quyền lực của đảng.
Giáo phái Hòa Hảo chịu một số hạn chế về các hoạt động tôn giáo và chính trị từ năm 1975, một phần vì Đảng Cộng sản vẫn nghi ngờ hoạt động chống đối vũ trang của họ từ thời thực dân Pháp còn cai trị. Sau 1975, tất cả cơ sở hành chính, nơi thờ tự, các thể chế văn hóa, xã hội liên quan đến đạo Hòa Hảo đều bị đóng cửa. Các tín đồ tiếp tục hành đạo tại nhà riêng, nhưng do không được đến những nơi công cộng, nên cộng đồng Hòa Hảo bị cô lập và phân tán. Năm 1999, một cơ quan chính thức của đạo Hòa Hảo, Hội đồng Trị sự Hòa Hảo, được thành lập. Mùa xuân năm 2005, Hội đồng Trị sự Hòa Hảo mở rộng và đổi tên thành Ban Điều hành Phật giáo Hòa Hảo. Một số chức sắc trong cộng đồng Hòa Hảo, kể cả những chức sắc thời kỳ trước năm 1975, công khai chỉ trích Ban Điều hành. Họ cho rằng Ủy ban này quỵ lụy Chính phủ và đòi quyền được chính thức công nhận đối với tổ chức của riêng họ - Giáo hội Phật giáo Trung ương Hòa Hảo. Các tín đồ Giáo hội Phật giáo Trung ương Hòa Hảo bị đàn áp mạnh, mâu thuẫn giữa một số nhà hoạt động Hòa Hảo và quan chức chính quyền ở vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn tiếp tục.
Chính phủ vẫn lo ngại về một số nhóm dân tộc thiểu số hoạt động ở vùng này đang điều hành “Hội thánh Đề-ga” tự phong mà có tin là tổ chức này phối hợp hành đạo với hoạt động chính trị và kích động ly khai trong nhóm người dân tộc thiểu số. Sự việc này làm phức tạp và gây chậm chễ cho quá trình đăng ký và công nhận các giáo hội khác ở Tây Nguyên. Mặc dù tình hình được cải thiện trong thời gian báo cáo này đề cập, nhưng Hội thánh Tin Lành miền Nam và các nhà thờ tại gia ở các tỉnh Tây Nguyên như Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum, Bình Phước và Đắc Nông vẫn bị Chính quyền giám sát chặt chẽ.
Chính phủ yêu cầu tất cả các ấn phẩm tôn giáo phải do Nhà xuất bản Tôn giáo, trực thuộc Ban Tôn giáo, ấn hành, hoặc phải do các nhà xuất bản được Chính phủ cho phép in ấn nhưng phải được Chính phủ phê duyệt nội dung trước. Năm 2007, Nhà xuất bản Tôn giáo đã in khoảng 800 đầu sách và các ấn phẩm khác với tổng số 1,3 triệu bản. Một loạt bộ kinh, kinh phật và các ấn phẩm, tài liệu tôn giáo khác được in và phát hành công khai. Nhà xuất bản Tôn giáo đã in 250.000 bản kinh phật Hòa Hảo, cùng 100.000 bộ những lời giảng và tiên tri của nhà sáng lập. Tuy nhiên, các tín đồ Hòa Hảo cho biết Chính phủ vẫn hạn chế việc phát hành toàn bộ kinh Phật, đặc biệt là tập thơ của nhà sáng lập. Ban Đại diện Hội Phật giáo Hòa Hảo chính thức nói rằng đó là do thiếu kinh phí chứ không phải do Chính phủ hạn chế không cho in toàn bộ kinh phật Hòa Hảo. Kinh thánh được in bằng tiếng Việt, tiếng Trung Quốc, tiếng Êđê, Jarai, Bannar và tiếng Anh. Nhà xuất bản Tôn giáo đang xem xét yêu cầu in bộ Kinh bằng tiếng H’mông.
Chính phủ cho phép đi lại vì mục đích tôn giáo, nhưng để tham gia vào các hội nghị tôn giáo và các khóa đào tạo ở nước ngoài thì phải được các cơ quan chức năng phê chuẩn. Các tín đồ Hồi giáo được phép hành hương đến thánh địa Mecca, các chức sắc Phật giáo, Công giáo, Tin Lành nhìn chung được đi ra nước ngoài học tập và dự hội nghị. Các chức sắc tôn giáo không chính thức khác thì đi nước ngoài thường xuyên. Những người theo đạo sau khi đi nước ngoài về thỉnh thoảng bị chất vấn về hoạt động của họ và phải nộp lại hộ chiếu. Tuy nhiên, việc này ngày càng ít đi.
Chính phủ cho phép, và trong một số trường hợp còn khuyến khích các tổ chức tôn giáo được chính thức công nhận liên kết với các nhóm theo cùng tôn giáo ở nước ngoài; tuy nhiên, Chính phủ tích cực ngăn chặn Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất tiếp xúc với những Phật tử ủng hộ họ ở nước ngoài. Mặc dù bị ngăn cản nhưng tiếp xúc giữa một số tổ chức Tin Lành chưa đăng ký với những thành phần ủng hộ ở nước ngoài vẫn diễn ra thường xuyên, kể cả đào tạo, hỗ trợ tài chính và cung cấp tài liệu tôn giáo. Chính phủ vẫn lo ngại về tiếp xúc giữa các tín đồ Tin Lành “Đề-ga” ly khai ở Tây Nguyên với những người ủng hộ ở hải ngoại.
Việc theo tôn giáo nào được ghi rõ trên chứng minh thư và trong “sổ hộ khẩu”. Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều công dân theo đạo thường không ghi như vậy trên chứng minh thư, và Chính phủ liệt họ vào nhóm không theo đạo. Mặc dù có thể thay đổi mục tôn giáo trên chứng minh thư nhưng nhiều người cải đạo đã gặp những thủ tục quá phiền hà hoặc sợ Chính phủ trừng phạt. Chính phủ không yêu cầu ghi tôn giáo trên hộ chiếu.
Việc theo một tín ngưỡng nào đó nhìn chung không ngăn cản người dân tham gia vào đời sống kinh tế và những sinh hoạt đời thường, tuy nhiên nó cản trở sự thăng tiến trong Đảng Cộng sản, Chính phủ và trong hàng ngũ quân đội. Quân đội không có chức giáo sĩ tuyên úy. Trước đây việc thừa nhận theo đạo cản trở việc vào Đảng, nhưng nay Đảng tuyên bố có đến hàng vạn trong số hơn ba triệu Đảng viên theo đạo. Tín đồ của nhiều nhóm tôn giáo hiện đang nắm giữ các chức vụ trong chính quyền tỉnh và địa phương, và là đại biểu Quốc hội. Một số giáo sĩ và tín đồ là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - một tổ chức xã hội chính trị của Đảng Cộng sản. Quan chức Đảng và Chính phủ thường xuyên đi lễ đền, chùa, nhà thờ, và thậm chí đến cả một số nhà thờ Công giáo và Tin Lành nhân dịp Giáng sinh.
Nghị định 22 quy định Uỷ ban Nhân dân các tỉnh phải chấp thuận việc xây dựng các cơ sở tôn giáo mới. Việc trùng tu hoặc nâng cấp các cơ sở tôn giáo mặc dù không nhất thiết phải được phép nhưng phải thông báo cho chính quyền, tuỳ thuộc vào mức độ cải tạo. Nghị định quy định rằng chính quyền phải có ý kiến trong vòng 20 ngày đối với đơn xin phép xây dựng.
Chính quyền các tỉnh đã trả lại một ít tài sản đất đai của nhà thờ bị tịch thu sau khi đất nước thống nhất năm 1975 và tiếp tục thảo luận về những tài sản khác. Rất nhiều cơ sở đất đai bị tịch thu trước kia là các trường đào tạo về tôn giáo và bệnh viện đã được sát nhập vào hệ thống trường và bệnh viện công. Mặc dù Chính phủ và Giáo hội Công giáo đã đạt được thỏa thuận về việc trả lại một cơ sở, nhưng còn nhiều cơ sở khác chưa được giải quyết. Các tổ chức Tin Lành được công nhận đã nhận lại một số ít đất đai bị tịch thu trước đó, nhưng tranh chấp về những khu đất khác vẫn còn. Hội thánh Tin lành Việt nam miền Nam vẫn muốn đòi lại hơn 250 khu đất. Các hệ phái Tin Lành khác hoạt động ở miền Nam trước năm 1975 cũng đòi đất. Các chức sắc đạo Cao Đài cho biết trong số khoảng 100 cơ sở bị tịch thu, 30 cơ sở đã được trả lại.
Vấn đề đất đai trở nên phức tạp do yếu tố lịch sử và sự phát triển kinh tế nhanh chóng trong những năm gần đây. Như trong trường hợp địa điểm Tòa Khâm sứ cũ tại Hà Nội, có những khu đất mà cả Phật tử lẫn các tín đồ Công giáo đều đòi lại, do những khu đất đó trước kia thuộc về các chùa Phật giáo nhưng sau đó trong thời kỳ thực dân Pháp cai trị lại được giao cho Giáo hội Công giáo. Một số khu đất tương tự sau đó bị Chính quyền cách mạng tịch thu. Hơn thế nữa, đất đai ngày càng là một hàng hóa có giá trị ở Việt Nam, và chính phủ ưu tiên các kế hoạch thúc đẩy phát triển kinh tế. Các tổ chức tôn giáo, các tổ chức phi chính phủ, nông dân và các chủ sở hữu đất nhỏ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp và các nhà kinh doanh địa ốc có tiềm lực tài chính và ảnh hưởng chính trị mạnh hơn. Các chức sắc tôn giáo cho biết các vụ tranh chấp đất đai của họ là vấn đề kinh tế chứ không phải là phân biệt đối xử với tôn giáo.
Mặc dù Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo khuyến khích các tổ chức tôn giáo tổ chức các hoạt động từ thiện trong lĩnh vực giáo dục và y tế, nhưng mức độ giám sát của chính quyền đối với các hoạt động này khác nhau tùy theo địa phương. Ở một số vùng, đặc biệt là miền Nam, các linh mục và nữ tu Công giáo đã mở các nhà trẻ, các trại trẻ mồ côi, các trung tâm dạy nghề, các trạm y tế và tham gia vào nhiều chương trình nhân đạo khác. Ở Thành phố Hồ Chí Minh và Huế, Giáo hội Công giáo tham gia hỗ trợ xây dựng các trung tâm điều trị và bệnh viện cho bệnh nhân HIV/AIDS và tư vấn cho thanh niên. Giáo hội cũng mở một trung tâm dành cho các bà mẹ và trẻ em nhiễm HIV. Trong nửa đầu năm 2008, các khóa huấn luyện về chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS dành cho các linh mục, nữ tu, và những người trợ tế đã được mở ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh và Giáo hội Công giáo tiếp tục thảo luận cách thức phê chuẩn chính thức các sáng kiến mới, ví dụ địa vị pháp lý chính thức của Giáo hội khi thực hiện các hoạt động phòng chống HIV/AIDS, mặc dù chính quyền cho phép Giáo hội ngầm thực hiện các sáng kiến đó. Tuy nhiên, hoạt động mà không có cơ sở pháp lý cũng khiến Giáo hội gặp phải một số khó khăn. Ví dụ, trung tâm không thể có được giấy khai sinh hợp pháp và đưa trẻ em mà Giáo hội chăm sóc vào học tại các trường công. Các hoạt động từ thiện của các nhóm tôn giáo ở miền Bắc bị hạn chế hơn nhiều, tuy nhiên trong thời gian báo cáo này tường trình có tin là một số tỉnh miền bắc đã được cho phép. Ví dụ, tỉnh Thái Bình tích cực khuyến khích hoạt động của Giáo hội Công giáo về HIV/AIDS và điều trị cho người bệnh và người tàn tật. Trong thời gian báo cáo này tường trình, chính quyền Thành phố Hải Phòng cũng bắt đầu hợp tác với Giáo hội Công giáo trong các lĩnh vực liên quan tới điều trị nghiện ma túy và HIV/AIDS, trong khi giáo phận Nam Định đã mở một trại trẻ mồ côi.
Chức sắc Ban trị sự Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt nam miền Bắc cho biết chính quyền tỉnh Thanh Hóa và Nam Định tích cực khuyến khích các giáo hội trên địa bàn của tỉnh mở rộng các hoạt động từ thiện. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tham gia các hoạt động nhân đạo, trong đó có thực hiện các chương trình cai nghiện và chăm sóc trẻ em, chương trình điều trị cho những người nhiễm HIV/AIDS và các hoạt động từ thiện khác trên cả nước. Bên cạnh việc thực hiện các chương trình điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS, thành phố Hà Nội đã cho phép một số chùa thuộc Giáo hội Phật giáo Việt nam được mở các trại trẻ mồ côi dành cho trẻ em bị bỏ rơi và trẻ em tàn tật.
Các chức sắc Hồi giáo tại thành phố Hồ Chí Minh cho biết quan chức thành phố ủng hộ việc hỗ trợ người nghèo của họ. Trong thời gian báo cáo này tường trình, các tổ chức Cao Đài và Hòa Hảo được công nhận chính thức cũng cho biết họ tham gia vào rất nhiều hoạt động từ thiện và các chương trình phát triển của địa phương.
Lạm dụng tự do tôn giáo
Báo cáo về các trường hợp lạm dụng tôn giáo giảm dần trong khoảng giai đoạn báo cáo này đề cập. Tuy nhiên, nhiều tín đồ tiếp tục bị đàn áp hoặc sách nhiễu do hoạt động trái phép. Trong một số vụ lẻ tẻ, cán bộ địa phương đàn áp các tín đồ Tin Lành tại một số khu vực ở Tây Nguyên và Tây Bắc và các khu vực khác bằng cách hạn chế các cuộc tụ họp tại nhà thờ, đóng cửa các nhà thờ tại gia và buộc các tín đồ phải từ bỏ tôn giáo, tín ngưỡng của mình, nhưng những cố gắng này đều không thành công.
Một số tín đồ người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên - đặc biệt ở những vùng bị nghi là có liên quan tới “Giáo hội Đề-ga” tiếp tục bị ngăn không cho tụ họp hành đạo. Tuy nhiên, số báo cáo đáng tin cậy về các vụ việc xảy ra đã giảm đáng kể so với những năm trước và có vẻ như phản ánh sự thiên vị cá nhân ở cấp địa phương chứ không phải chính sách của Chính phủ trung ương. Trong một số vụ, cán bộ địa phương liên quan bị khiển trách hoặc bãi nhiệm.
Hạn chế đối với các chức sắc Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất vẫn được giữ nguyên, quyền tự do đi lại, tự do phát biểu ý kiến và tự do hội họp của chức sắc bị hạn chế. Không có nhiều báo cáo đáng tin cậy về việc cán bộ tùy tiện bắt giam, trả thù và sách nhiễu tín đồ vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo, đặc biệt là ở các vùng dân tộc thiểu số miền núi.
Trong tháng 4-5/2008, một mục sư của Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn tỉnh Thanh Hóa cho biết đã xảy ra một số vụ sách nhiễu, cụ thể là công an can thiệp vào các buổi lễ cầu nguyện và phạt 6 đô-la (100.000 đồng) đối với những người tham gia và tiến hành thẩm vấn những người này.
Cũng trong tháng 4 và 5/2008, Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn tại xã Hiếu Từ, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh cho biết chính quyền địa phương một vài lần đã giải tán các buổi hành lễ và ép các mục sư hạn chế hành lễ bằng cách đe dọa cắt phúc lợi chính quyền. Có tin là hai tín đồ đã bị người dân địa phương đánh đập.
Tháng 3/2008 có tin là các mục sư thuộc Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm tại tỉnh Bình Phước bị công an xã đánh đập và sỉ nhục khi trên đường đi giảng đạo cho các tín đồ người H’mông thiểu số ở tỉnh Đắc Nông.
Tháng 2/2008, các tín đồ Công giáo ở tỉnh Gia Lai bị ngăn không cho tổ chức các buổi hành lễ đặc biệt nhân ngày tết âm lịch.
Tháng 12/2007 tại xã Thất Hùng, tỉnh Hải Dương, các nhà chức trách địa phương đã ngăn không cho Hội thánh Tin lành Giám lý Việt Nam Liên hiệp tổ chức lễ Giáng sinh 2007 tại nhà của một mục sư vì lý do giáo hội này chưa đăng ký. Ba mục sư đã bị giam giữ và thẩm vấn. Để ngăn không cho các buổi hành lễ diễn ra, người ta đã chặn lối vào nhà và cắt điện nhà mục sư đó.
Một số giáo đoàn thuộc Hội thánh Giám lý và Hội Thánh Tin Lành Liên hiệp Truyền giáo ở Quảng Bình, Bình Phước và Tiền Giang cũng cho biết họ cũng gặp rắc rối trong dịp lễ Giáng sinh. Một số không được phép tiến hành buổi lễ, một số khác được phép nhưng bị hạn chế số lượng mục sư và tín đồ tời từ các địa phương khác.
Cũng trong tháng 12/2007, một giáo đoàn Công giáo ở tỉnh Điện Biên tổ chức lễ Giáng sinh, nhưng sau đó chủ nhà nơi tổ chức sự kiện này cho biết họ bị công an thẩm vấn. Công an muốn chủ nhà hứa sẽ không tổ chức tụ họp nữa vì giáo đoàn chưa đăng ký. Chủ nhà không hứa và không cho biết liệu đã có những sách nhiễu mới nào sau đó nữa không.
Sáu giáo đoàn thuộc Hội thánh Baptist Việt nam ở huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai cho biết hồi tháng 10/2007 đơn đăng ký của họ không được các nhà chức trách địa phương chấp nhận. Các quan chức cũng yêu cầu các giáo đoàn cho họ danh sách tên của các tín đồ, những người sau đó đã đến gặp và bị công an địa phương đe dọa.
Trong giai đoạn Báo cáo này tường trình, các giáo đoàn thuộc Hội Thánh Tin Lành Liên hiệp Truyền giáo ở tỉnh Long An tiếp tục gặp nhiều rắc rối. Tháng 8/2007 cán bộ cấp xã công khai đe dọa các mục sư và đe dọa bắt giam các tín đồ. Tháng 7/2007 công an ở một xã khác đã giải tán và chấm dứt một lớp học kinh thánh mùa hè của 52 trẻ em của Hội Thánh Tin Lành Liên hiệp Truyền giáo, tịch thu tài liệu Kinh thánh, và triệu tập hai mục sư để thẩm vấn. Một thành viên Hội Thánh Tin Lành Liên hiệp Truyền giáo cho biết tháng 7/2007cán bộ xã đã đến nhà bà gây áp lực buộc bà phải bỏ đạo, đe dọa bỏ tù và cắt các khoản trợ cấp của chính phủ.
Tháng 8/2007 công an địa phương đã giải tán một buổi tụ họp của Hội thánh Truyền giáo Ekklesia Phục hưng tại tỉnh Hà Tây. Công an đã tịch thu một cuốn thánh ca và mười cuốn kinh thánh, đồng thời lập biên bản hành chính và cảnh cáo nếu ai còn tiếp tục tham gia các buổi tụ họp nữa sẽ bị bắt.
Đầu tháng 6/2007 tín đồ thuộc Hội thánh Tin lành Việt nam miền Bắc tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai cho biết chính quyền địa phương, kể cả thành viên của lực lượng biên phòng, đã về huyện để tổ chức tập huấn về khuôn khổ pháp lý tôn giáo. Theo các tín đồ, chính quyền địa phương áp mức hình phạt lên tới khoảng 100 đô-la (1,7 triệu đồng) đối với tám “tín đồ Tin Lành bất hợp pháp” và phạt vật chất (tịch thu gà) đối với chín người khác. Các “tín đồ Tin Lành bất hợp pháp” bị cáo buộc hành đạo Tin Lành mà không xin phép chính quyền tỉnh. Sau vụ việc này, chức sắc của Ban trị sự Hội thánh Tin lành Việt nam miền Bắc đã chính thức yêu cầu chính quyền tỉnh điều tra vụ việc nhưng họ không hề nhận được hồi âm. Trong giai đoạn báo cáo này tường trình, các thành viên giáo đoàn không cho biết thêm về bất cứ vụ việc nào nữa.
Mặc dù giấy chứng nhận đăng ký sinh hoạt tôn giáo nên không có thời hạn, một giáo đoàn thuộc Hội thánh Tin lành Việt nam miền Bắc ở tỉnh Lào Cai nhận được giấy chứng nhận đăng ký do chính quyền tỉnh cấp tháng 5/2007 với ngày hết hạn là 31/12/2007. Sau khi giáo đoàn nhận được giấy chứng nhận đăng ký, công an đã gọi chức sắc giáo đoàn tới để yêu cầu họ phải “ngoan ngoãn” nếu không giáo đoàn sẽ bị mất địa vị pháp lý và sẽ không được đăng ký lại.
Tháng 1/2007 một người trợ tế theo đạo Tin Lành ở tỉnh Tuyên Quang đã bị bắt vì vận chuyển bản sao của cuốn kinh thánh bằng tiếng H’mông và các tài liệu giảng dạy tôn giáo. Sau vài ngày giam giữ, người này bị phạt 62 đô-la (1 triệu đồng).
Tháng 1/2007 ở tỉnh Ninh Bình, công an đã phá hủy bức tượng Đức mẹ sầu bi sau một đám rước của các tín đồ công giáo. Tháng 3/2007, trưởng công an xã bị khiển trách và chính quyền địa phương đã đề nghị khôi phục lại bức tượng. Tuy nhiên, vị Giám mục giáo phận từ chối lời đề nghị này và tự tu sửa bức tượng tháng 7-8/2007.
Mặc dù chức sắc của một số giáo đoàn Tin Lành ở Tây Nguyên cho biết chính quyền địa phương tích cực ngăn cản không cho những người mới cải đạo được hành đạo. Tuy nhiên, trong thời gian báo cáo này tường trình, không có nhiều có báo cáo đáng tin cậy về việc chức sắc các giáo hội chưa đăng ký ở Tây Nguyên và Tây Bắc bị sách nhiễu, bị giam hay bị ép phải bỏ đạo.
Việc phổ biến thông tin về khuôn khổ pháp lý tôn giáo không được thực hiện một cách đồng bộ, đặc biệt ở miền Bắc và Tây Bắc. Cho đến cuối thời gian báo cáo này tường trình, nhiều mục sư và linh mục cho biết công an và các nhà chức trách khác đã không thực hiện đầy đủ những bộ luật này. Trong giai đoạn báo cáo này tường trình, một số tín đồ Tin Lành ở các tỉnh miền Bắc và Tây Bắc cho biết quan chức địa phương thường dùng lý do pháp luật làm cái cớ để cản trở hoặc gây khó dễ khi đăng ký.
Mặc dù có những tiến bộ rõ rệt ở Tây Nguyên, song các giáo đoàn thuộc Hội thánh Tin Lành miền Nam ở Đắc Lắc khẳng định việc đăng ký các địa điểm tụ họp mới diễn ra rất chậm và cho biết vấn đề chính của họ vẫn là đào tạo mục sư mới để đáp ứng sự gia tăng của các giáo đoàn. Một chức sắc của nhà thờ tại gia Tin Lành ở tỉnh Đắc Lắc cho biết chính quyền địa phương đã đe dọa và sách nhiễu, thậm chí đặt một chiếc biển trước nhà thờ ghi rõ “khu vực quân đội, không xây dựng nhà cửa, không lấn chiếm đất đai”. Biển này đã bị dỡ bỏ tháng 10/2007. Tại huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, nơi mà đầu năm 2006 cán bộ huyện không cho là có “tôn giáo” nào ở khu vực này, các quy định còn ngặt nghèo hơn. Trong khi đó những báo cáo mới đây từ Kon Tum cho thấy tình hình ở đây đang được cải thiện. Có dấu hiệu cho thấy ít nhất trong một số trường hợp cán bộ chính quyền cấp cao hơn đã can thiệp và khiển trách chính quyền địa phương vì đã gây khó dễ cho các nhà thờ tại gia, trái với Chỉ thị của Thủ tướng về Đạo Tin Lành. Trong một số vụ việc xảy ra ở đồng bằng sông Cửu Long, có tin là chính quyền địa phương tăng cường sách nhiễu các nhóm nộp đơn đăng ký.
Mặc dù khẳng định từ năm 2004 Chính phủ đã bớt can thiệp một cách thường xuyên và có hệ thống vào các buổi lễ tôn giáo của họ, nhưng thành viên của Hội Thánh Tin Lành Liên hiệp Truyền giáo ở tỉnh miền nam Long An tiếp tục cho biết cán bộ địa phương sách nhiễu họ. Tháng 4/2008, cán bộ địa phương đã can thiệp vào các buổi lễ cầu nguyện tại nhà một mục sư và phạt hành chính vì vi phạm Pháp lệnh Tự do, tín ngưỡng. Tháng 11/2007 có tin là công an địa phương đã giải tán các cuộc tụ họp tại một địa điểm.
Tháng 6/2006, chủ sở hữu bốn nhà thờ tại gia của Hội Thánh Tin Lành Liên hiệp Truyền giáo bị giam ngắn hạn vì lý do nhà thờ chưa đăng ký mà đã tổ chức các buổi hành lễ là phạm pháp. Hội Thánh Tin Lành Liên hiệp Truyền giáo ở Long An không thể tổ chức các buổi tụ họp tôn giáo qua đêm thường xuyên, nếu muốn tụ họp từ 50 người trở lên hoặc tổ chức các lớp giảng đạo đều phải xin phép. Các thành viên của Hội Thánh Tin Lành Liên hiệp Truyền giáo cho biết họ có thể in ấn và phổ biến tài liệu tôn giáo “nếu làm một cách bí mật”.
Tháng 6/2007 một nhóm 150 mục sư thuộc Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm bị các nhà chức trách tỉnh Bình Phước giam trên xe vài giờ sau một buổi cầu nguyện với sự tham gia của 2.000 tín đồ. Các nhà chức trách địa phương phàn nàn và chất vấn các chức sắc về việc “truyền bá phúc âm và tổ chức tụ họp đông người mà không xin phép”. Nhóm này sau đó được phép quay trở lại Thành phố Hồ Chí Minh, và trưởng ban tôn giáo tỉnh đề nghị hỗ trợ Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm xin đăng ký hoạt động ở tỉnh.
Ngày càng khó xác định chính xác số tín đồ Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm ở các địa phương thuộc tỉnh tây bắc Điện Biên, nơi công an mạnh tay giải tán các buổi tụ họp hành đạo, còn chính quyền thì từ chối cho đăng ký các điểm tụ họp. Các tín đồ ở đó đưa ra những báo cáo đáng tin cậy cho thấy họ bị “ép phải tụ họp bí mật vào ban đêm, ngoài cánh đồng” để cầu nguyện. Chính quyền địa phương gây áp lực mạnh mẽ buộc các tín đồ Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm ở đó phải từ bỏ tín ngưỡng và quay trở lại với các tín ngưỡng truyền thống. Tình trạng này kéo dài vài năm.
Tháng 4/2008, hòa thượng trụ trì chùa Phước Huế, trực thuộc Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất ở tỉnh Quảng Trị cho biết công an và cán bộ địa phương đã đến chùa thông báo quyết định của thành phố tịch thu một phần đất vốn được dùng làm khu bếp của chùa. Tin cho biết công an địa phương đã lục soát nơi ở của hòa thượng và tịch thu một máy tính, một máy ảnh kỹ thuật số, một điện thoại di động, và khoảng 6.300 đô-la, gồm cả tiền Việt và đô-la Mỹ. Trong quá trình lục soát, hòa thượng và một số chú tiểu bị giữ ở ngoài sân. Thợ địa phương đã xây một bức tường ngăn cách chùa và khu bếp. Công an không đưa ra lệnh khám xét nào, cũng không trình bất cứ giấy tờ nào liên quan đến việc tịch thu đồ đạc của hòa thượng. Tháng 5/2008, nhân ngày Phật đản, một cán bộ cấp cao của công an tỉnh đã tới chùa xin lỗi vì vụ lục soát, và hứa sẽ trả lại tiền và đồ đạc của vị hòa thượng nhưng đến nay hòa thượng vẫn chưa nhận lại được bất cứ thứ gì.
Tháng 4/2008, có tin là Thượng toạ Thích Trí Khải bị cán bộ địa phương trục xuất khỏi chùa Giác Hải, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Những người này sau đó đã đột nhập vào chùa và thay khóa. Công an địa phương và cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bị cáo buộc đã tập hợp công dân và các phật tử địa phương công khai lên án Thượng toạ Khải trước khi trục xuất. Hai vị sư của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất muốn thăm Thượng toạ Khải đã bị công an giam giữ và thẩm vấn. Có những báo cáo chưa được xác định cho biết hồi tháng 5 Thượng toạ Khải đã bị ốm do bị cảnh sát sách nhiễu và muốn vào Thành phố Hồ Chí Minh chữa bệnh. Tuy nhiên, kể từ đó không thể liên lạc được với vị thượng toạ này.
Ngày 8/11/2007 ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, một vị sư người dân tộc thiểu số Khmer đã bị lột mũ áo ở Căm-pu-chia và trục xuất về Việt Nam, lĩnh mức án một năm tù vì tội “phá hoại đoàn kết dân tộc” theo điều 87 của Bộ luật Hình sự Việt Nam. Tòa án tỉnh cáo buộc vị sư này đã kích động nhân dân tham gia các vụ biểu tình đòi đất đai.
Chính phủ khẳng định họ không giam giữ bất kỳ tù nhân tôn giáo nào. Thay vào đó, những cá nhân đó thường bị kết án vi phạm pháp luật an ninh quốc gia hoặc luật hình sự. Một số nhà quan sát ước tính số lượng tù nhân tôn giáo cao hơn, nhìn chung là do các cá nhân bị bắt có tham gia vào các nhóm Đề-ga hoặc các vụ đụng độ giữa công an và những người biểu tình là người dân tộc thiểu số hồi tháng 2/2001 và 4/2004. Chính phủ và nhiều chức sắc tôn giáo chính thức hoặc không chính thức cho rằng các vụ biểu tình xuất phát từ các tranh chấp đất đai hoặc tình trạng bất bình đẳng về kinh tế-xã hội chứ không phải vì lý do tôn giáo. Mặc dù rất khó để xác định con số chính xác trong các vụ việc này vì hệ thống tư pháp không minh bạch, nhưng chức sắc tôn giáo thuộc các nhóm tôn giáo lớn cho biết họ không có tín đồ nào bị tù vì lý do tín ngưỡng.
Ít nhất có 15 người, trong đó có Hòa thượng Thích Huyền Quang, Thích Quảng Độ thuộc Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất và mục sư Công giáo Phạm Văn Lợi, bị giam giữ trong điều kiện giống quản thúc tại gia vì những lý do liên quan chủ yếu tới niềm tin chính trị của họ hay do nỗ lực thành lập các tổ chức tôn giáo không được cho phép, mặc dù không hề có cáo buộc chính thức nào chống lại họ. Việc đi lại của một số chức sắc và các tín đồ khác của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất, Cao Đài, Công giáo, Hòa Hảo và Tin Lành bị hạn chế hoặc bị công an giám sát và theo dõi. Hai thành viên của HHCBC là Trần Văn Thắng và Trần Văn Hoàng bị bắt ngày 25/2/2005 và bị kết án 6 và 9 tháng tù giam vì “sản xuất và phát tán băng đĩa thu âm bất hợp pháp về tín ngưỡng Hòa Hảo”. Họ còn bị phạt 1.640 đô-la mỗi người (26 triệu đồng).
Cưỡng ép cải đạo
Nghị định 22 quy định “Không được ép buộc công dân theo một tôn giáo hoặc từ bỏ tín ngưỡng”. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về Đạo Tin Lành cũng khẳng định như vậy. Mặc dù các quan chức Chính phủ khẳng định việc ép cải đạo hoặc từ bỏ tín ngưỡng luôn là bất hợp pháp, những văn bản trên là những văn bản pháp luật đầu tiên khẳng định rõ quy định này. Các nguồn tin cho biết ở Tây Nguyên và vùng Tây Bắc tình trạng ép phải bỏ tín ngưỡng đã giảm bớt. Trong giai đoạn báo cáo này tường trình ít có báo cáo về các vụ việc xảy ra.
Cán bộ địa phương ở một số làng vùng Tây Bắc tiếp tục thuyết phục hoặc ép các tín đồ Tin Lành người H’mông từ bỏ tín ngưỡng. Chính quyền địa phương còn khuyến khích các già làng, trưởng bản gây áp lực đối với gia đình, con cháu họ từ bỏ Thiên chúa giáo và quay về với những tín ngưỡng truyền thống.
Tháng 4/2007 các báo cáo đáng tin cậy khác cho biết công an huyện Minh Hóa, phía bắc tỉnh Quảng Bình đã tịch thu Kinh thánh của các tín đồ Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm và ép họ phải bỏ đạo, và nói với họ rằng “Tin Lành là một tôn giáo xấu xa của Mỹ”.
Tháng 3/2007 các tin là công an huyện Đông Điện Biên, tỉnh Điện Biên tới nhà của các tín đồ Liên đoàn Truyền giáo Phúc âm gây áp lực bắt họ phải từ bỏ tín ngưỡng. Có tin là trong một vụ công an địa phương đã nói với các tín đồ là “tin vào Chúa Giê-su là tin vào Mỹ”.
Không có báo cáo nào về việc ép cải đạo của số ít công dân Mỹ bị bắt cóc hay bị đưa ra khỏi nước Mỹ một cách bất hợp pháp, hoặc không cho phép những công dân này quay trở lại Mỹ.
Những cải thiện và diễn biến tích cực về tôn trọng quyền tự do tôn giáo
Tình hình tôn trọng tự do tôn giáo đã được cải thiện đáng kể trong giai đoạn báo cáo này tường trình. Ở nhiều vùng, phật tử, tín đồ Công giáo, Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài và cả Chính phủ cho biết có sự gia tăng các hoạt động tôn giáo và hành lễ. So với những năm trước, Chính phủ tiếp tục nới lỏng những hạn chế đối với các nhóm tôn giáo. Những thay đổi này xuất phát từ việc thực hiện mạnh mẽ hơn những sửa đổi quan trọng trong khuôn khổ pháp lý về tôn giáo đưa ra năm 2004 và 2005 và Chính phủ có thái độ tích cực hơn đối với các nhóm Tin Lành. Nhiều nhóm tôn giáo được công nhận và chưa được công nhận, đặc biệt các nhóm Tin Lành ở Tây Nguyên và Tây Bắc cho biết tình hình của các tín đồ tiếp tục được cải thiện. Bên cạnh đó, Chính phủ tiếp tục tích cực tập huấn, thông tin và khuyến khích chính quyền các tỉnh và địa phương tuân thủ các quy định theo khuôn khổ pháp lý tôn giáo.
Trong thời gian báo cáo này đề cập, các giáo hội thành viên và các nhà thờ tại gia thuộc Hội thánh Tin Lành miền Nam cho biết tình hình đã được cải thiện ở các tỉnh Tây Nguyên như Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum và Đắc Nông. Hội thánh Tin lành Việt nam miền Nam cho biết 10 giáo đoàn và 21 điểm tụ họp nữa thuộc Hội thánh Tin lành Việt nam miền Nam ở Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước đã được đăng ký trong thời gian báo cáo này tường trình. Một giáo đoàn có thể có nhiều điểm nhóm.
Hầu hết các giáo đoàn của Hội thánh Tin Lành Việt nam miền Nam và các địa điểm tụ họp ở Tây Nguyên đều có thể đăng ký hoạt động với cán bộ địa phương và được phép hoạt động mà không bị sách nhiễu. Ví dụ, hàng trăm nơi cầu nguyện đã được phép hoạt động ở Gia Lai, hợp pháp hóa hoạt động của hàng vạn tín đồ trong tỉnh. Hội thánh Tin Lành Việt nam miền Nam cũng mở các nhà thờ mới ở Gia Lai, Đắc Lắc và Đắc Nông. Ví dụ, chính quyền tỉnh Gia Lai tạo điều kiện thuận lợi xây dựng năm nhà thờ thuộc Hội thánh Tin lành Việt nam miền Nam vẫn mới tại huyện Ia Grai, huyện Đức Cơ, thành phố Plây-cu, và hai nhà thờ ở huyện Đắc Doa. Ngoài ra, Hội thánh Tin Lành Việt nam miền Nam còn tiếp tục tổ chức các lớp học kinh thánh ở những tỉnh này để tập huấn cho một số mục sư truyền đạo trong vùng, cho phép họ được chính thức công nhận là mục sư. Việc những mục sư mới được thụ chức là một bước quan trọng trong quá trình công nhận những nhà thờ mới của Hội thánh Tin Lành Việt nam miền Nam.
Công an và các quan chức chính quyền khác ở Tây Bắc đã phối hợp với lãnh đạo các nhà thờ tại gia ở một số nơi để thông báo cho họ những quy định mới. Ban Tôn giáo Chính phủ đã tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ cấp tỉnh và huyện về những quy định mới về tôn giáo để đảm bảo họ “thực hiện những chính sách này một cách nhất quán”. Ban Tôn giáo Chính phủ cũng tổ chức các cuộc hội thảo tập huấn cho các chức sắc tôn giáo. Năm 2007, Ban tôn giáo Chính phủ đã tổ chức các khóa tập huấn cho khoảng 2.000 cán bộ xã ở các tỉnh miền núi Tây Bắc, Tây Nguyên và tỉnh Bình Phước. Các nguồn tin từ Hội thánh Tin lành Việt nam miền Bắc ở Tây Bắc xác nhận rằng chính quyền cho phép hầu hết các giáo đoàn chưa đăng ký được thờ phượng tại nhà và gặp gỡ công khai,phù hợp với chỉ thị năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ.
Nhiều mục sư thuộc các giáo phái Tin Lành như Cơ đốc Phục lâm, Mennonite, Báp-tít, và Liên đoàn Truyền bá Phúc âm và Hộ thánh Phúc âm ngũ tuần không muốn gia nhập Tổng hội Hội thánh Tin Lành Việt nam miền Nam hoặc Hội thánh Tin Lành Việt nam miền Bắc vì có sự khác biệt về học thuyết. Nhiều nơi ở Việt Nam, đặc biệt khu vực thành thị, các giáo phái này và các nhóm Tin Lành khác cho biết họ có thể hành đạo công khai và cán bộ địa phương biết điều đó. Mặc dù có những ngoại lệ, song mức độ sách nhiễu đối với những nhà thờ tại gia không được công nhận của các hệ phái không thuộc Hội thánh Tin Lành Việt nam miền Nam và Hội thánh Tin Lành Việt nam miền Bắc tiếp tục giảm trên cả nước. Chính phủ đã thảo luận về việc đăng ký và công nhận với chức sắc của một số giáo đoàn Tin Lành, Giáo hội các thánh hữu ngày sau của Chúa Giêsu Kitô và Hội thánh Chứng nhân Giê-hô-va.
Việc tham dự các buổi lễ tôn giáo tiếp tục gia tăng trong giai đoạn báo cáo này đề cập. Số nhà sư của đạo Phật, linh mục Công giáo, và mục sư Tin Lành cũng tiếp tục gia tăng. Hạn chế đối với các buổi hành lễ của các tín đồ Tin Lành tiếp tục giảm đi. Tín đồ Công giáo trên cả nước được phép tổ chức lễ Giáng sinh và Phục sinh mà không bị can thiệp. Một số ít các giáo đoàn Tin Lành ở Tây Nguyên gặp khó khăn trong việc tổ chức các buổi lễ vào dịp Giáng sinh, nhưng cho biết họ được phép tổ chức lễ Phục sinh mà không gặp phải khó khăn nào. Các giáo đoàn thuộc Hội thánh Tin lành Việt nam miền Bắc ở tỉnh Tây bắc Điện Biên cho biết họ không gặp khó khăn nào khi tổ chức lễ Giáng sinh và Phục sinh. Đây là một tiến bộ rõ rệt so với những năm qua.
Giáo hội Công giáo cho biết Chính phủ tiếp tục nới lỏng kiểm soát đối với việc phong phẩm bổ nhiệm của Giáo hội, và nhiều linh mục mới đã được thụ phong. Chính phủ không còn hạn chế số học viên tuyển vào đại chủng viện hàng năm. Liên hệ giữa Tòa thánh Vatican và cộng đồng Công giáo trong nước được tăng cường bằng các chuyến viếng thăm chính thức lẫn nhau giữa Tòa thánh và Chính phủ và việc thành lập một uỷ ban chung thảo luận vấn đề bình thường hóa quan hệ. Chính phủ duy trì đối thoại thường xuyên với Tòa thánh Vatican về hàng loạt vấn đề, như bình thường hóa quan hệ ngoại giao, lãnh đạo của Giáo hội, các hoạt động tổ chức, vấn đề đất đai và đối thoại giữa các tôn giáo.
Chính phủ và Giáo hội Phật giáo Việt nam đã tổ chức thành công Ngày Lễ Phật Đản quốc tế của Liên Hợp Quốc lần thứ năm vào tháng 5/2008. Đây là hội nghị Phật giáo quốc tế đầu tiên ở Việt Nam, với 3.500 đại biểu, trong đó có 2.000 đại biểu nước ngoài tới từ 80 quốc gia.
Hòa thượng Thích Nhất Hạnh hiện sống ở Pháp được cho phép trở về dự Lễ Phật Đản tháng 5/2008. Ông đã đi nhiều nơi trên khắp cả nước, gặp gỡ với nhiều nhóm Phật tử, và đối thoại với các nhà trí thức và quan chức chính phủ, trong đó có cả Đại sứ Mỹ.
Trong khoảng thời gian báo cáo này đề cập, một số nhóm tôn giáo cũng được phép tổ chức các buổi lễ tôn giáo lớn, như lễ hội La Vang của Công giáo, hành hương về đất tổ Vua Hùng, các buổi lễ Phật giáo ở Huế, ngày thành lập đạo Hòa Hảo và kỷ niệm ngày mất của người sáng lập. Ước tính mỗi lễ hội thu hút sự tham gia của hàng vạn người. Các tín đồ Tin Lành tại gia tụ tập thành các nhóm lớn trong các buổi hành lễ đặc biệt tại Thành phố Hồ Chí Minh và ở các nơi khác. Quan chức chính quyền Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng tạo điều kiện cho việc tổ chức các buổi lễ Giáng sinh và Phục sinh của các giáo đoàn Tin Lành.
Tháng 11/2007, với sự giúp đỡ của Chính phủ, Viện Liên kết Toàn cầu - một tổ chức phi chính phủ ở Mỹ, phối hợp với Hội Việt-Mỹ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam và Trường Đại học Brigham tại Hà Nội đã đồng tổ chức một hội thảo về tôn giáo và pháp quyền ở Đông Nam Á. Hội thảo quy tụ các học giả quốc tế và các luật gia của Việt Nam và 12 nước khác, tập trung thảo luận về quyền tự do tôn giáo và tác động đối với tôn giáo, văn hóa, phát triển luật pháp và an ninh của một nước.
Tháng 10/2007 Chính phủ hoan nghênh và tạo điều kiện thuận lợi cho chuyến thăm của một phái đoàn Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ (USCIRF) tới Việt Nam. Một nhóm thành viên và nhân viên Ủy ban này đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo chính phủ cấp cao và các chức sắc tôn giáo, và được phép thăm các tù nhân chính trị và người thân của các tù nhân chính trị và những người bất đồng chính kiến. Đây là điều chưa có trong tiền lệ. Sự hợp tác đầy đủ của Chính phủ đối với phái đoàn USCIRF là một tiến bộ rõ rệt, trái với thái độ dè dặt trước đây.
Chính phủ cho biết trong năm 2007 đã có 383 nơi thờ tự mới được xây dựng và 461 nơi thờ tự khác được trùng tu. Chính phủ cũng tiếp tục cấp giấy chứng nhận sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo. Các nhóm Công giáo và Tin Lành cho biết có một số tiến bộ trong các vụ tranh chấp đất đai. Tháng 4/2008 các giới chức cấp tỉnh và Giáo hội Công giáo đã đạt được thỏa thuận về việc trao trả nhà thờ La Vang và trung tâm hành lễ, một địa điểm hành lễ quan trọng của Công giáo và một trong ba tài sản thuộc diện ưu tiên mà Giáo hội Công giáo đã chính thức yêu cầu Chính phủ trả lại. Sau những cuộc tụ tập lớn tại Tòa khâm sứ cũ ở Hà Nội (do Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội quản lý) hồi tháng 2/2008, các quan chức chính phủ đồng ý trao đổi với lãnh đạo nhà thờ Công giáo về tương lai của khu đất này. Các quan chức chính phủ tiếp tục phải xử lý những vụ đòi đất còn tồn đọng và không có biện pháp nào mang tính hệ thống hay có văn phòng trung ương nào xem xét và phán quyết về những tranh chấp này.
Chính phủ tiếp tục tuyên truyền chính sách tự do và khoan dung tôn giáo mới thông qua các cơ quan nhà nước. Ban Tôn giáo Chính phủ tiếp tục tập huấn cho cán bộ tuyên truyền của các tỉnh miền núi Tây Bắc để phổ biến thông tin về tôn giáo nhằm giảm bớt căng thẳng xã hội đang gia tăng giữa các tín đồ theo tín ngưỡng truyền thống của người dân tộc thiểu số với những người cải đạo sang Tin Lành.
Phần III. Phân biệt đối xử và kỳ thị trong xã hội
Trong thời gian báo cáo này tường trình, ít có những báo cáo về phân biệt đối xử xã hội hoặc bạo lực vì lý do tôn giáo. Tháng 10/2007 một mục sư của Hội thánh Tin lành Việt nam miền Nam ở tỉnh Trà Vinh cho biết đã xảy ra vụ việc trong đó ông và một số tín đồ bị khoảng 50 người Khmer đánh đập, còn nhà cửa bị hủy hoại. Cùng ngày, khi được gọi đến đồn công an xã, họ lại bị khoảng 200 người địa phương đánh đập trước mặt một hòa thượng người Khmer và các nhà chức trách địa phương. Vị mục sư khẳng định cán bộ xã ép ông phải ký cam kết dừng giảm hành lễ tại nhà thờ tại gia. Khi công an áp giải nhóm này về nhà, một số người đã bị tách ra khỏi nhóm và tiếp tục bị đánh, phải đưa đi bệnh viện vì bị thương. Việc đăng ký của giáo đoàn này vẫn chưa được giải quyết từ năm 2006.
Sự phát triển của đạo Tin Lành ở Tây Nguyên trở nên phức tạp do sự hiện diện của các phần tử ly khai "Đề-ga". Nhóm này chủ trương đấu tranh vì một nhà nước tự trị hoặc độc lập cho người trong vùng, đặc biệt ở các tỉnh Gia Lai, Đắc Nông và Đắc Lắc. Được biết những phần tử ly khai này có liên hệ với các nhóm cổ xúy chính trị ở Mỹ. Mối quan hệ giữa phong trào Đề-ga và các tín đồ Tin Lành thuộc Hội thánh Tin Lành Việt nam miền Nam rất căng thẳng ở một số nơi ở Tây Nguyên. Có tin là các nhà hoạt động Đề-ga đã đe dọa các mục sư Hội thánh Tin Lành miền Nam không được phép hoạt động trong “nhà nước Đề-ga” trừ khi họ từ bỏ Hội thánh Tin Lành Việt nam miền Nam. Các mục sư Tin Lành khác đã cáo buộc phong trào Đề-ga đang lợi dụng tôn giáo để phục vụ các mục tiêu chính trị.
Phần IV. Chính sách của Chính phủ Mỹ
Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội và Tổng Lãnh sự quán Mỹ tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tích cực và thường xuyên bày tỏ lo ngại về quyền tự do tôn giáo với các nhà lãnh đạo Đảng và các quan chức chính phủ, kể cả lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Ban Tôn giáo Chính phủ, Bộ Công an, và các cơ quan khác tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh. Đại sứ quán cũng duy trì tiếp xúc thường xuyên với các chức sắc tôn giáo và những người bất đồng chính kiến.
Đại sứ Mỹ, Tổng Lãnh sự Mỹ tại Thành phố Hồ Chí Minh và các quan chức khác của Sứ quán và Lãnh sự quán đã nêu các vấn đề tự do tôn giáo với các thành viên cấp cao của Chính phủ, bao gồm Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ, các thứ trưởng Ngoại giao và Công an, các quan chức Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh, các quan chức cao cấp của chính phủ, chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh trên cả nước, và các quan chức khác, đặc biệt ở Tây Nguyên và Tây Bắc. Các quan chức của Sứ quán và Tổng lãnh sự quán duy trì tiếp xúc thường xuyên với các cơ quan chủ chốt có trách nhiệm đảm bảo tôn trọng nhân quyền. Cán bộ sứ quán và lãnh sự quán liên tục thông báo với các quan chức chính phủ rằng tiến bộ về tự do tôn giáo và nhân quyền là bước quan trọng tiến tới cải thiện quan hệ song phương.
Cán bộ sứ quán kêu gọi công nhận nhiều nhóm tôn giáo, kể cả Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, các Hội thánh Tin Lành tại gia và các nhóm Hòa Hảo và Cao Đài bất đồng. Họ yêu cầu các nhóm tôn giáo đã được công nhận phải được hoạt động tự do hơn nữa. Ngài Đại sứ còn yêu cầu Chính phủ điều tra những cáo buộc lạm dụng các tín đồ và trừng phạt bất cứ quan chức nào có liên đới. Cán bộ sứ quán cùng Đại sứ lưu động về Tự do Tôn giáo của Mỹ tiếp tục yêu cầu chấm dứt hoàn toàn việc ép bỏ tín ngưỡng và trừng phạt các quan chức có liên quan, đồng thời yêu cầu cho phép đăng ký và mở cửa lại các nhà thờ tại gia đã bị đóng cửa.
Đại diện Sứ quán và Tổng lãnh sự quán thường xuyên tiếp xúc với chức sắc các cộng đồng tôn giáo chính, bao gồm Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo và Đạo Hồi. Cán bộ lãnh sự quán duy trì tiếp xúc thường xuyên với Thích Quảng Độ và các hòa thượng khác của Giáo hội Phật giáo Việt nam Thống nhất. Cán bộ sứ quán và lãnh sự quán đã gặp Hồng y Phạm Minh Mẫn tại Thành phố Hồ Chí Minh, các tổng giám mục công giáo ở Huế và Hà Nội và các giám mục ở Đắc Lắc, Gia Lai, Kon tum, Cần Thơ, Lạng Sơn, Sơn Tây, Thanh Hóa, Nam Định, Ninh Bình, Buôn Ma Thuột và Hải Phòng, cũng như các thành viên khác của Hội đồng Giám mục. Cán bộ sứ quán và tổng lãnh sự quán cũng liên tục gặp gỡ các chức sắc của Ban trị sự Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt nam miền Nam, Ban trị sự Tổng hội Hội thánh Tin lành Việt nam miền Bắc và các nhà thờ Tin Lành tại gia và các chức sắc của cộng đồng Hồi giáo. Trong các chuyến thăm các tỉnh ngoài Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, cán bộ sứ quán và lãnh sự quán thường làm việc với ban tôn giáo các tỉnh, các trưởng làng, giới tăng lữ địa phương và các tín đồ. Nhân viên sứ quán tiếp tục khuyến khích và giám sát việc thực hiện khuôn khổ pháp lý về tôn giáo của Chính phủ một cách thường xuyên và ở mọi cấp từ trung ương đến tỉnh và địa phương.
Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì nó là một tác phẩm của chính quyền liên bang Hoa Kỳ (xem 17 U.S.C. 105).
Tác phẩm này thuộc phạm vi công cộng vì nó là một tác phẩm của chính quyền liên bang Hoa Kỳ (xem 17 U.S.C. 105).