Báo cáo tình hình buôn người năm 2015

Báo cáo tình hình buôn người năm 2015  (2015) 
của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, do Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam dịch

Báo cáo được công bố ngày 27 tháng 7 năm 2015.

Việt Nam - Danh sách loại 2

Việt Nam là quốc gia xuất phát của nhiều nam giới, phụ nữ và trẻ em bị mua bán vì mục đích tình dục hoặc bị cưỡng ép lao động trong nước và nước ngoài. Nam giới và phụ nữ Việt Nam di cư ra nước ngoài lao động thông qua con đường tự túc hoặc thông qua các công ty xuất khẩu lao động của nhà nước, tư nhân và cổ phần. Sau đó một số người đã bị cưỡng ép lao động trong các ngành xây dựng, đánh bắt thuỷ sản, nông nghiệp, khai thác mỏ, khai thác gỗ, chế tạo, chủ yếu tại Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Lào, các Tiểu vương quốc Ả-rập Thống nhất, và Nhật Bản. Phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán vì mục đích cưỡng ép tình dục ở nước ngoài; nhiều nạn nhân bị lừa gạt bởi các cơ hội việc làm giả mạo và bị bán cho các nhà chứa ở biên giới với Trung Quốc, Campuchia và Lào; một số người bị bán vì mục đích tình dục ở Thái Lan và Malaysia. Một số phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài qua những cuộc hôn nhân với người nước ngoài thông qua môi giới, chủ yếu là đến Trung Quốc và số ngày càng nhiều người sang Malaysia, sau đó đã bị cưỡng ép phục vụ trong gia đình hoặc hành nghề mại dâm. Làm công trừ nợ, thu giữ hộ chiếu, và dọa nạt bị trục xuất là những thủ đoạn thường được dùng để bắt các nạn nhân Việt Nam phải phục vụ. Một thủ đoạn ngày càng được sử dụng nhiều là có những gã trai dùng mạng internet để lừa những phụ nữ trẻ và bé gái vào những mối quan hệ hẹn hò trên mạng và dụ dỗ họ đi ra nước ngoài, nơi họ bị ép lao động hoặc bán dâm. Các nạn nhân thường bị dụ dỗ bởi họ hàng hoặc người quen, và thường thì những người thân cận trong gia đình cũng biết và ủng hộ, thậm chí còn giục họ đi ra nước ngoài. Các mạng lưới tội phạm có tổ chức của Việt Nam đã dụ dỗ và đưa những người dân Việt Nam, nhất là trẻ em, sang châu Âu – đặc biệt là Vương quốc Anh và Ai-len - và buộc họ làm việc trong các trang trại trồng cần sa; nạn nhân bị mờ mắt bởi những hứa hẹn về công ăn việc làm có lợi nhuận cao, và đã bị cưỡng bức lao động qua việc làm công trừ nợ. Các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam, hầu hết là các đơn vị thành viên của các công ty nhà nước, đôi khi đã bắt người lao động phải đóng những khoản phí vượt quá mức quy định của pháp luật để được đi xuất khẩu lao động, khiến người lao động Việt Nam phải gánh chịu những khoản nợ chồng chất và đẩy họ vào cảnh dễ bị cưỡng ép lao động và làm công trừ nợ. Sau khi đến nước tiếp nhận lao động, một số người mới nhận ra rằng họ bị bắt buộc phải làm việc trong những điều kiện tồi tàn, được trả lương rất ít hoặc không được trả lương, bất chấp những khoản nợ đang đè nặng trên vai, cũng như không được tiếp cận với kênh trợ giúp pháp lý đáng tin cậy nào. Các công ty tuyển dụng lao động xuất khẩu đôi khi không đáp ứng yêu cầu trợ giúp của người lao động khi họ bị bóc lột.

Ở Việt Nam, cũng có trường hợp nam giới, phụ nữ và trẻ em bị lao động cưỡng bức. Các tổ chức phi chính phủ báo cáo rằng trẻ em đường phố và trẻ em tàn tật là nhóm đặc biệt dễ bị tổn thương. Trẻ em có thể bị bắt đi bán hàng rong hay đi ăn xin tại các trung tâm đô thị lớn của Việt Nam. Một số trẻ em là nạn nhân của lao động cưỡng bức và lao động trừ nợ tại các xưởng may hay lò gạch, làm giúp việc tại các gia đình thành thị, hoặc tại các mỏ vàng tư nhân. Trẻ em, phần nhiều đến từ các vùng thôn quê, cũng bị buôn bán vì mục đích tình dục. Việt Nam là nước đích đến cho du lịch tình dục trẻ em, và các kẻ mua dâm chủ yếu là những người đến từ châu Á, Anh, Úc, Châu Âu và Hoa Kỳ. Chính phủ đã thực thi một quy định mới vào năm 2014, theo đó chỉ khi có quyết định của tòa án thì mới được phép đưa những người nghiện ma túy vào các trung tâm cai nghiện bắt buộc, và những người cai nghiện tại các trại giáo dưỡng này chỉ phải làm việc tối đa 3 tiếng mỗi ngày. Trong năm báo cáo, một số người sử dụng ma túy đang phải chấp hành một số án phạt vi phạm hành chính theo quy định cũ vẫn phải ở trong các trại cai nghiện bắt buộc và bị lao động bắt buộc. Các tổ chức phi chính phủ cũng báo cáo về nạn tham nhũng liên quan đến buôn bán người, chủ yếu ở cấp địa phương, khi các quan chức tại các điểm kiểm soát biên giới và cửa khẩu nhận hối lộ từ những kẻ buôn người và họ đã không can thiệp để bảo vệ quyền lợi cho nạn nhân nếu như giữa nạn nhân với kẻ buôn người có quan hệ họ hàng với nhau.

Chính phủ Việt Nam chưa tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn tối thiểu, tuy nhiên cũng đã có những nỗ lực đáng kể nhằm xóa bỏ nạn mua bán người. Các nhà chức trách Việt Nam tiếp tục truy tố và kết án các thủ phạm buôn người vì mục đích tình dục trong nước và xuyên quốc gia, nhưng lại không truy tố hình sự đối với những kẻ buôn người để cưỡng bức lao động trong nước và xuyên quốc gia. Chính phủ cũng báo cáo rằng số lượng các cán bộ được đào tạo về phòng chống buôn người đã tăng lên; tuy nhiên, nhiều cán bộ không nhận diện được hoặc không thực hiện điều tra các vụ buôn người để cưỡng bức lao động, dẫn đến việc họ không nhận diện được nạn nhân và điều tra hình sự trong năm 2014. Nói chung, các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam đối với những người Việt Nam lao động ở nước ngoài bị bắt làm công trừ nợ hoặc các dạng lao động cưỡng bức khác còn chưa nhất quán và chưa đầy đủ. Tuy nhiên, các cán bộ chính phủ ở nước ngoài đã hỗ trợ các nạn nhân hồi hương trong năm 2014, và đã phối hợp với các tổ chức phi chính phủ để giúp cho các nạn nhân trở về từ Trung Quốc và Malaysia. Các tổ chức phi chính phủ báo cáo rằng các cán bộ ở biên giới tại những khu vực có nguy cơ cao về buôn người đã tham gia tích cực hơn vào việc điều tra các vụ buôn người, nhưng việc đồng lõa của những cán bộ này vẫn là một cản trở đối với các nỗ lực chống buôn người ở Việt Nam.

KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM:

Sử dụng các quy định trong Luật Phòng chống Mua bán người năm 2012 để kiên quyết truy tố tất cả các hình thức mua bán người và kết án và xử phạt những kẻ buôn người, đặc biệt trong những vụ cưỡng bức lao động hay cán bộ đồng lõa với bọn buôn người; đảm bảo rằng những nội dung sửa đổi dự kiến về phòng chống buôn người trong Bộ luật Hình sự cho phép truy tố hình sự đối với tội danh buôn bán người; chủ động theo dõi các công ty xuất khẩu lao động và thực thi nghiêm các quy định cấm việc thu phí môi giới quá cao; tăng cường công tác tập huấn cho các cán bộ ở tuyến đầu và các cán bộ tòa án về Luật Phòng chống mua bán người, tập trung cụ thể vào việc xác định và điều tra các vụ án về lao động cưỡng bức và các vụ xảy ra hoàn toàn ở Việt Nam; chấm dứt việc bắt những người nghiện ma túy phải lao động bắt buộc trong các trung tâm cai nghiện (cải tạo) của chính phủ; thực thi các chính sách để chủ động xác định nạn nhân và cung cấp sự hỗ trợ cho nạn nhân trong các nhóm dễ bị tổn thương, chẳng hạn như các lao động Việt Nam di cư, gái mại dâm, và lao động trẻ em, và đào tạo cho các cán bộ chính phủ trong việc áp dụng các quy trình nói trên; đào tạo các cán bộ lãnh sự quán về quyền của người lao động và các chuẩn mực lao động quốc tế; hỗ trợ các nỗ lực của các tổ chức quốc tế hoặc các bên có liên quan khác nhằm nghiên cứu và báo cáo về các xu hướng mua bán người ở Việt Nam, bao gồm cả việc công bố các kết quả nghiên cứu; cải thiện công tác thu thập và chia sẻ số liệu ở cấp độ toàn quốc về tất cả các hình thức mua bán người; tăng cường hợp tác liên ngành trong các nỗ lực chống mua bán người nhằm triển khai hiệu quả kế hoạch hành động quốc gia; xây dựng các chương trình nhằm giảm kỳ thị và đẩy mạnh sự tái hòa nhập của những người trở về từ nạn mua bán người; và thực hiện các chiến dịch nâng cao nhận thức về phòng chống mua bán người, trực tiếp hướng đến các đối tượng lôi kéo người lớn và trẻ em vào hoạt động mua bán tình dục.

TRUY TỐ

Chính phủ Việt Nam đã tiếp tục nỗ lực thực thi pháp luật chống lại nạn mua bán người. Luật Phòng chống mua bán người năm 2012 đã mở rộng Điều 119 và 120 của Bộ luật Hình sự, định nghĩa rõ khái niệm và hình sự hóa tội buôn người vì mục đích cưỡng bức lao động hoặc tình dục, tuy nhiên vẫn chưa rõ là Luật này có cấm tất cả các hình thức mua bán người hay không. Tùy vào mức độ nghiêm trọng của tội, các điều khoản trong Luật này quy định mức phạt tù từ 2-20 năm đối với tội mua bán người vì mục đích tình dục, và 3-25 năm đối với tội danh mua bán người vì mục đích lao động cưỡng bức. Đây là những chế tài đủ mức răn đe và tương ứng với các mức hình phạt dành cho các tội danh nghiêm trọng khác, như tội hiếp dâm. Đồng thời, Luật cũng áp dụng mức phạt tiền đối với những kẻ mua bán người là từ 5-50 triệu đồng Việt Nam ($240-$2.350). Năm 2014, chính phủ đã khởi động một cơ sở dữ liệu máy tính trên toàn quốc để theo dõi các vụ mua bán người; tuy nhiên, vẫn còn sự thiếu nhất quán trong các dữ liệu được thu thập về việc thực thi pháp luật phòng chống mua bán người và nhận diện nạn nhân.

Năm 2014, Chính phủ đã bắt giữ 685 nghi can mua bán người, và truy tố 472 người (trong đó có 346 người bị truy tố theo Điều 119 và 126 người bị truy tố theo Điều 120), và đã kết án 413 bị can, với mức án chủ yếu từ 3-15 năm tù, giảm đôi chút so với số 420 bị can bị kết án trong năm 2013. Các nhà chức trách không báo cáo có bao nhiêu vụ liên quan đến mua bán người vì mục đích tình dục hay lao động cưỡng bức, hay bao nhiêu vụ là mua bán người trong nước và bao nhiêu vụ xuyên quốc gia. Mặc dù những sửa đổi bổ sung của Luật phòng chống mua bán người năm 2012 đã đưa ra cơ sở pháp lý hình sự để truy tố những tội danh này, nhưng các cán bộ vẫn chủ yếu xử lý các vụ mua bán người vì mục đích cưỡng ép lao động như là các vi phạm hành chính theo luật lao động, mà trong đó không quy định về các hình phạt hình sự. Các cán bộ tiếp tục tham gia vào các hoạt động chung với các quốc gia khác liên quan đến điều tra và giải cứu nạn nhân với các đồng nghiệp ở Trung Quốc, Campuchia, và Lào. Việc hợp tác giữa các cơ quan cấp tỉnh còn yếu đã cản trở tiến bộ trong thực thi pháp luật về phòng chống mua bán người, và các cán bộ đôi khi không theo đuổi các cuộc điều tra mua bán người do hạn chế về ngân sách ở tỉnh. Những tranh chấp về hợp đồng giữa lao động Việt Nam và các công ty tuyển dụng lao động—kể cả các hành vi lừa đảo trong tuyển dụng lao động và các trường hợp khác có dấu hiệu của cưỡng ép lao động—phần lớn được giao hoàn toàn cho công ty tuyển dụng lao động giải quyết. Mặc dù người lao động có quyền hợp pháp để đưa các vụ việc ra tòa, nhưng trên thực tế ít người có đủ nguồn lực để theo kiện. Chính phủ cho biết đã có nhiều cán bộ hơn được tập huấn về phòng chống mua bán người. Bộ Công an đã tổ chức 40 khóa đào tạo liên ngành cho 1.000 cán bộ về kỹ thuật điều tra liên quan đến mua bán người. Tuy nhiên, các cán bộ địa phương lại gặp khó khăn trong việc áp dụng các điều luật và quy định về phòng chống mua bán người. Mặc dù tình trạng tham nhũng liên quan đến mua bán người tiếp tục xảy ra ở cấp địa phương, song chính phủ không báo cáo bất kỳ một vụ điều tra, truy tố hay kết án nào đối với các cán bộ nhà nước vì tội đồng lõa mua bán người.

BẢO VỆ NẠN NHÂN

Chính phủ vẫn chưa nỗ lực hết mức trong việc bảo vệ nạn nhân. Năm 2014, các nhà chức trách đã nhận diện được 1.031 người có thể là nạn nhân của mua bán người, nhưng lại không cho biết bao nhiều người bị mua bán vì mục đích tình dục hay cưỡng bức lao động, bao nhiêu người là người lớn hay trẻ em, bao nhiêu người bị mua bán ở Việt Nam hay nước ngoài. Trong khi đó, chính phủ đã chứng nhận cho 982 nạn nhân trong năm 2013. Các cơ chế nhận diện và chuyển nạn nhân vẫn còn yếu kém trên phạm vi cả nước. Chính phủ có một quy trình chính thức để nhận diện nạn nhân, nhưng lại chưa sử dụng quy trình đó một cách chủ động để xác định nạn nhân trong các nhóm có rủi ro cao, như phụ nữ bị bắt vì hành nghề mại dâm, hoặc lao động di cư hồi hương, và lao động trẻ em. Chính phủ cũng chưa giới thiệu nạn nhân một cách có hệ thống đến các dịch vụ bảo vệ nạn nhân, do các yếu kém trong quy trình giới thiệu nạn nhân. Các cán bộ tiếp tục nhập tội mua bán người với tội buôn lậu, dẫn đến việc là không nhận diện được những nạn nhân di cư ra nước ngoài theo chủ ý của họ.

Năm 2014, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã cung cấp dịch vụ và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho 668 nạn nhân của nạn buôn người, và đã hỗ trợ hồi hương cho hơn một nửa số người đó. Chất lượng của các dịch vụ bảo vệ nạn nhân ở các địa phương còn chưa đồng đều, nhưng thông thường bao gồm dịch vụ hỗ trợ pháp lý, tư vấn, cơ sở tạm lánh, đào tạo nghề, chăm sóc ý tế, và trợ cấp tài chính. Các nhà chức trách không báo cáo về số nạn nhân đã sử dụng trợ cấp một lần của chính phủ - tối đa là 1 triệu đồng ($50). Các trung tâm bảo trợ xã hội của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, là nơi hỗ trợ cho nhiều nhóm dễ bị tổn thưởng khác nhau, đôi khi cũng nhận cho các nạn nhân mua bán người vào trú tạm; những trung tâm này thường thiếu kinh phí hoạt động và thiếu các cán bộ được đào tạo phù hợp để hỗ trợ nạn nhân. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, phối hợp với các tổ chức phi chính phủ và các quỹ do nước ngoài tài trợ, tiếp tục điều hành ba nhà tạm lánh ở các khu đô thị, trong đó có một nhà tạm lánh dành riêng cho các nạn nhân mua bán người. Tuy nhiên hiện vẫn chưa có nhà tạm trú hay dịch vụ nào dành riêng cho nạn nhân mua bán người là nam giới, trẻ em hoặc nạn nhân bị mua bán vì mục đích lao động. Việt Nam vẫn duy trì vị trí tùy viên lao động tại đại sứ quán ở 9 quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam nhiều nhất; tuy nhiên, các báo cáo cho rằng các cán bộ ngoại giao chưa được tập huấn đầy đủ để có thể giải quyết các trường hợp mua bán người. Việt Nam còn thiếu sự đại diện ngoại giao hoặc các thỏa thuận song phương với những nước mà công dân Việt Nam có nguy cơ bị mua bán nhiều nhất, khiến cho nạn nhân Việt Nam ở những nước này không thể tiếp cận được với sự hỗ trợ và nỗ lực bảo vệ nạn nhân của chính phủ. Trong một số trường hợp cho hồi hương, các đại sứ quán đã cung cấp các nhu yếu phẩm, phương tiện đi lại và chăm sóc ý tế cho các nạn nhân Việt Nam bị bán ra nước ngoài. Chính phủ đã khuyến khích các nạn nhân hợp tác trong các vụ tố tụng chống lại bọn mua bán người, và có cơ chế bảo vệ và bồi thường cho nạn nhân, tuy nhiên các nạn nhân vẫn ngại sử dụng những hỗ trợ này do ngại thái độ kỳ thị xã hội khi biết họ là nạn nhân, sợ bị trả thù trong cộng đồng, và sợ bị trừng phạt về những hành động bất hợp pháp mà họ đã phạm phải trong quá trình mua bán người. Pháp luật Việt Nam bảo vệ nạn nhân mua bán người khỏi những cáo buộc hình sự về những hành vi là hậu quả trực tiếp của việc bị mua bán; tuy nhiên, do nỗ lực nhận diện nạn nhân trong nhóm những người dễ bị tổn thương chưa đầy đủ nên một số nạn nhân có thể bị coi là đối tượng vi phạm pháp luật. Chính phủ không đưa ra lựa chọn pháp lý nào khác trong việc đưa các các nạn nhân nước ngoài tới những nước mà họ phải đối mặt với việc bị trả thù hay tình trạng cùng quẫn.

NGĂN CHẶN VIỆC MUA BÁN NGƯỜI

Chính phủ Việt Nam đã tiếp tục nỗ lực trong việc ngăn chặn hành vi mua bán người. Cuối năm 2014 và đầu năm 2015, chính phủ đã bắt đầu lập kế hoạch hành động quốc gia 4 năm về phòng chống mua bán người (2016-2020), trong đó nêu ra các ưu tiên phòng chống mua bán người trong tương lai, mặc dù chưa nêu cụ thể mức ngân sách dành cho việc thực hiện kế hoạch này. Chính phủ chỉ chia sẻ với cộng đồng quốc tế một cách hạn chế các số liệu thống kê về nạn mua bán người và các hoạt động phòng chống mua bán người, và việc báo cáo thiếu chính xác các vụ mua bán người để cưỡng bức lao động đã làm cản trở các tiến bộ trong công tác phòng chống buôn người ở Việt Nam. Năm 2014, các cán bộ nhà nước đã hỗ trợ cho các chiến dịch nâng cao nhận thức về phòng chống mua bán người bằng cách phối hợp với các cơ quan truyền thông quốc gia và địa phương kể ra các câu chuyện về mua bán người trên đài phát thanh và tivi, và xuất bản các bài báo và bản tin về mua bán người. Chính phủ cũng đã tổ chức các cuộc đối thoại trong cộng đồng cho các nhóm có rủi ro cao, dễ bị mua bán để lao động cưỡng bức. Chính phủ đã xử phạt hoặc rút giấy phép của gần 40 công ty xuất khẩu lao động và thu hồi giấy phép của 5 công ty khác vì thu phí quá cao hoặc giữ lại tiền công của người lao động. Quy định nêu rõ mức phí và số tiền đặt cọc tối đa và tối thiểu mà người lao động Việt Nam phải đóng trước khi rời Việt Nam để ra nước ngoài làm việc, cụ thể là tương đương khoảng từ 6,5 – 65 triệu đồng (tương đương $300 đến $3.000) – điều này có thể sẽ giảm bớt gánh nặng nợ nần của những người lao động; tuy nhiên, cơ chế phí và đặt cọc bắt buộc cũng khiến cho người Việt Nam lao động ở nước ngoài dễ bị cưỡng bức lao động để trừ nợ hơn. Chính phủ đã có một số nỗ lực để giảm nhu cầu đối với hoạt động thương mại tình dục hoặc lao động cưỡng bức. Trong giai đoạn báo cáo, Chính phủ đã thực hiện một số đợt truy quét tại các nhà chứa và cơ sở massage trá hình cũng như đã sử phạt và thu hồi giấy phép hoạt động của một số công ty sử dụng lao động cưỡng bức. Chính phủ đã đào tạo hoặc hướng dẫn về các vấn đề phòng chống mua bán người cho các cán bộ ngoại giao của mình.

 Tác phẩm này là một bản dịch và có thông tin cấp phép khác so với bản quyền của nội dung gốc.
Bản gốc:
Bản dịch: