Đi thi tự vịnh
của Nguyễn Công Trứ

Đi không há lẽ trở về không,
Cái nợ cầm thư[1] phải trả xong.
Rắp mượn điền viên[2] vui tuế nguyệt[3],
Trót đem thân thế hẹn tang bồng[4].
Đã mang tiếng trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông.
Trong cuộc trần ai[5], ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.

   




Chú thích

  1. Cầm thư 琴書: cầm là đàn cầm, thư là sách, hai đồ dùng của người học trò. Nghĩa bóng là công học tập.
  2. Điền viên 田園: ruộng vườn; chỉ cái thú của người ở chốn thôn quê.
  3. Tuế nguyệt 歲月: năm tháng.
  4. Tang bồng hồ thỉ (桑蓬弧矢): tang - cây dâu; bồng - cỏ bồng; hồ - cây cung; thỉ - mũi tên. Theo Kinh Lễ, khi nhà vua sinh hoàng tử, quan coi việc lấy cung bằng cây dâu và 6 mũi tên bằng cỏ bồng, bắn ra bốn hướng (Đông, Tây, Nam, Bắc) rồi bắn lên trời một mũi, bắn xuống đất một mũi, ngụ ý: người con trai lớn lên có chí khí ở bốn phương, tung hoành ngang dọc trong trời đất
  5. Trần ai 塵埃: bụi cát. Nghĩa bóng là lúc còn hàn vi, lúc chưa hiển đạt.