Đi sứ cảm tác  (1802) 
của Trịnh Hoài Đức

18 bài thơ Trịnh Hoài Đức làm khi đi sứ Trung Quốc năm Nhâm Tuất (1802). Văn bản trong sách Thi pháp nhập môn của Trương Minh Ký xuất bản năm 1898.

1.

Vuông tròn trời đất nói khôn cùng,
Tháng bảy ngày rằm tới Quảng-đông,
Kẹo kéo lằng-nhằng nhai chửa đứt,
Tơ vò rối-rắm gỡ hầu xong,
Nửa năm rượu thịt, đôi quan khách,
Ngàn dặm non sông, một chiếc đồng,[1]
Chờ gặp cố nhơn, bày khoản khúc,
Kẻo đây thương đó, đó nguồi trông.

2.

Nguồi trông nên phải gắn chìu lòn,
Tháng tí ngày dần tới Úc-môn,
Ngàn trượng ơn sâu lai-láng biển,
Muôn trùng nghỉa nặng chập-chồng non,
Dưới trời ai kẻ không tôi chúa,
Trên đất mấy người chẳng vợ con,
Đồ-sộ vật chi, xem hởi đó,
Chẳng sau chẳng trước chẳng đen mòn.

3.

Đen mòn sao đặng nghỉa cùng ta,
Năn-nỉ sớm khuya việc cửa nhà,
Ít sống xưa nay, người bảy chục,
Nhiều lo lui tới, đạo năm ba,
Trăng tròn mặt ủ, mây chưa vén,
Biển mặn lòng thuơng, nước khó pha,
Cậy có Diêu-quang soi tỏ dạ,
Dể đâu chẳng biết vậy nhưng là.

4.

Nhưng là muốn mỡ nẻo chông gai,
Chi quản đường xa mấy dặm dài,
Dưới nguyệt ham vui nên chước chén,
Trong sương chịu lạnh đặng tầm mai,
Đã cam mình phải cây vô dụng,
Chớ nại người chê đứa bất tài,
Nghĩ kễ ba trăm năm có lẻ,
Xin đừng năn-nỉ chuyện nay mai.

5.

Nay mai còn có chổ chưa tường,
Cách bạn xa-xuôi mấy tháng trường,
Đường nọ phải chăng còn lộn-lạo,
Việc nầy khôn dại hảy lương-ương,
Chanh-ranh bởi đó sao lăng-liếu,
Mắt-mỏ vì ai khéo vấn-vương,
Trình với bao nhiêu người quyền thức,
Đam lòng quân tử mặc lo lường.

6.

Lo lường lại giận nổi con cua,
Tưỡng đến càng thêm sự đấu đua,
Mây mịt-mù che trời nhớ bạn,
Nước minh-mông dẫy biển trông vua,
Đi cờ thế đó tay không thấp,
Đếm đất đàng nầy cuộc chẳng thua,
Cho rỏ làm người thì phải vậy,
Dể mô chẳng biết một bàn lùa.

7.

Một bàn lùa sạch đúa hoang hung,
Phong cảnh như vầy phỉ luống trông,
Doi vịnh năm ba thuyền đỗ liểu,
Bên non bảy tám hạc về tùng,
Vật còn chút biết trời khuya sớm,
Người dể không hay đất lạnh-lùng,
Liếc thấy chín trùng chưa khỏe gối,
Dám đâu mình chịu phận thung-dung.

8.

Thung-dung theo thế ít ai bì,
Mượn mỏ làm vui dể khó chi,
Thu hứng tám bài thi Đổ phủ,
Đông ngâm một bức họa Vương-duy,
Cầm xan chong phiếm thương tri kỉ,
Cờ sắp thưa con học chỉnh sư,
Nhớ đó thời thôi nguôi dể đặng,
Thôi nguôi dể đặng khó chi chi.

9.

Chi chi nghe đến, tấm lòng xiêu,
Chắp nối Tì-bà hoán bấy nhiêu,
Riêng trách chẳng vàng, tay vẽ tượng,
Thầm than không bạc, mặt mua yêu,
Đất Hồ huê ủ màu khôn lợt,
Trời Hán trăng tròn bóng xế theo,
Bao quản ngọc quang, tình mấy dặm,
Mây sầu gió thảm buổi ban chiều.

10.

Ban chiều bên núi bóng cờ đưa,
Tiết nghỉa năm ba hảy đợi chờ,
Lố thấy ác vàng, lòng có Hán,
Liếc xem tuyết bạc, mắt không Hồ,
Chống sương một cán, cờ ngay thẳng,
Trãi gió năm canh, dạ phất-phơ,
Vói hỏi xanh xanh kia biết chẳng,
Ngày nào về đặng nước nhà xưa.

11.

Nước nhà xưa có phụ chi ai,
Nhắn với bao nhiêu kẻ cỏi ngoài,
Gắn sức dời non khoan nói tướng,
Trãi lòng nâng vạc mới rằng trai,
Nắng sương chưa đội trời chung một,
Sông núi đừng cho đất rẽ hai,
Giúp cuộc Vỏ Thang thêm trí lực,
Người còn đễ tiếng nức lâu dài.

12.

Lâu dài mong trã nợ quân thân,
Bao quản đường xa gánh nặng hoằng,
Chíp lụy anh hùng khi tác biệt,
Bày tình trung nghỉa đạo vi thần,
Con ve mấy chặp, hơi kêu hạ,
Đổ vủ năm canh, tiếng khóc xuân,
Gió thảm mưa sầu đang dập-dả,
Bút huê mượn chép sự khùng khằng.

13.

Khùng khằng lại tưỡng chuyện lăng-nhăng,
Tối chớp mai mưa gẫm chẳng-bằng,
Bến nước mười hai đưa chiếc lá,
Đất trời ba bảy đợi con trăng,
Thương đây lại dặn đừng thương lảng,
Nhớ đó thời thôi chớ nhớ xằng,
Mối nợ dây duơn, ai có hỏi,
Xưa nay củng một tấm lòng chăng.

14.

Tấm lòng chăng phải, phải phân trần,
Ít nói ấy người dưỡng tánh chân,
Đã bện bồ-nhìn làm đứa quỉ,
Lại trau cục đá tượng ông thần,
Dầu chưa nước phấn tô gương mặt,
Sẳn có cây da cậy tấm thân,
Củng muốn đem mình theo thế ấy,
Đem mình theo thế ấy bần thần.

15.

Bần thần phát giận đứa xung-xăng,
Quán Sở lầu Tần đã mấy trăng,
Phới-phới mưa xuân, hang dể lấp,
Chan-chan nắng hạ, lửa đương hừng,
Thu trao thơ nhạn, lời no ấm,
Đông gặp tin mai, chuyện khó-khăn,
Trời đất bốn phương non nước đó,
Làm chi nên nổi tới lăng-nhăng.

16.

Lăng-nhăng bửa diếp củng hoang-đàng.
Tiệc ngọc thuyền huê, bạn đãi-đằng,
Than phận linh-đinh, đào lắc-lở,
Trách tình lạc-lẻo, liểu lăng-quằng,
Con trăng nhán bóng, cây mai bạc,
Dì gió đưa duyên, đóa cúc vàng,
Ơn đội chúa xuân, cơn gặp-gở,
Canh tàn mộng tĩnh, dám mê-mang!

17.

Mê-mang cho đến bực là tiên,
Năm đấu năm bài giã dạng điên,
Vui sẳn trước huê vài đóa cúc,
Lo chi trong đảy mấy đồng tiền,
Lưu-linh, vợ lạy, không rời chén,
Lý-bạch, vua kêu, chẳng nới thuyền,
Hầu muốn học đòi theo thế ấy,
Song lo thời thế hảy chưa yên.

18.

Chưa yên ta phải tính làm sao,
Cơm áo ngồi không dể đặng nào,
Đã cậy binh sương trừ giặc cỏ,
Lại bày trận gió phất cờ lau,
Đất an cỏi Việt, rừng nho rậm,
Trời giúp nhà Ngu, biển thánh cao,
Mới rỏ tài non đền nợ nước,
Dám đâu tưỡng chuyện ẫn nguồn đào.

   




Chú thích

  1. Chiếc đồng hay là mông đồng, là chiến thuyền, là tàu trận.

 

Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.