Động Hương Tích (Dương Khuê)
Thú thiên-nhiên đâu bằng Hương-Tích,
Đủ thanh tao cảnh lịch trăm chiều!
Người thời vui sô, nạp, ngư, tiều[1],
Kẻ thời thích yên, hà, phong, nguyệt[2],
Kho vô-tận những thế nào chưa biết,
Thú hữu tình sơn thủy thực là vui!
Khi đăng lâm[3] có lối lên trời,
Mây dưới gót đủ xanh, đen, vàng, đỏ, trắng!
Lúc vào động ngắm sơn-quynh thạch-đắng[4],
Bút thần ngoan chưa khéo vẽ cho cùng.
Riêng một bầu sắc sắc không không[5],
Khắp mọi vẻ kỳ kỳ quái quái!
Thơ rằng: Động chủ hữu linh thần bút tại,
峒 主 有 靈 神 筆 在
Hóa nhi vô ý tự nhiên công[6]!
化 兒 無 意 自 然 功
Khách trèo non ngoảnh lại mà trông,
Lòng mến cảnh dời chân đi hóa đứng!
Chén vân dịch[7] nghiêng bầu uống gắng;
Bức thơ tiên mở túi liền đề,
Giải-oan[8] ra, tẩy tục lại thêm hay,
Thiên-trù[9] tới, vong cơ[10] càng thấy khỏe!
Làng thi tửu còn đâu hơn đấy nhỉ?
Chẳng Bồng-lai Nhược-thủy[11] cũng thần tiên!
Rõ ràng « Đệ-nhất Nam-thiên[12] »,
Mang đi sợ để thần tiên mất lòng!
Thôi thì để đấy chơi chung.
Chú thích
- ▲ Người cắt cỏ, người đi săn, người đánh cá, người kiếm củi.
- ▲ Là khói, mây, gió, trăng: chỉ cảnh-sắc thiên-nhiên.
- ▲ Là lên tới núi.
- ▲ Là cửa núi, bậc đá.
- ▲ Chữ trong kinh Phật: Sắc: cõi có hình, không: cõi vô hình, phép Phật vượt qua cõi có hình đến cõi vô hình.
- ▲ Nghĩa là: Chủ động có thiêng, nét bút thần vẫn nguyên; trẻ tạo-hóa không cố ý, tự-nhiên mà thấy khéo.
- ▲ Một thứ rượu tiên.
- ▲ Lối vào động có một cái suối nước trong tự trong đá chảy ra, gọi là « suối Giải-oan ».
- ▲ Thiên-trù (bếp trời) là tên chữ một ngôi chùa làm gần động, thường gọi là chùa ngoài, đến đấy rồi mới đến động.
- ▲ Quên đói: có bếp nên không sợ đói.
- ▲ Đảo Bồng-lai, sông Nhược-thủy, là nơi tiên cảnh.
- ▲ Chúa Trịnh xưa khắc ở cửa động năm chữ: « Nam-thiên đệ-nhất động » động thứ nhất ở trời Nam.
Tác phẩm này, được phát hành trước ngày 1 tháng 1 năm 1929, đã thuộc phạm vi công cộng trên toàn thế giới vì tác giả đã mất hơn 100 năm trước.