3.— VĂN TẾ.— Văn tế là một bài văn kể lể tính nết công đức của người mình cúng tế, để tỏ tấm lòng kính trọng hoặc thương nhớ của mình. Lối văn dùng theo lối phú hoặc lối lưu-thủy hay là lối văn xuôi cũng được.


Bài văn của Khổng-minh tế Chu-du.
(Dịch theo nguyên điệu)

Than ôi Công-cẩn! Chẳng may trời hại, thọ yểu số trời, lòng ta ái ngại! Rót chén rượu này, lòng ta xót xa, ngươi có khôn thiêng, chứng giám cho ta.

Thương ngươi thủa nhỏ, chơi với Bá-Phù, trượng nghĩa khinh tài, nhường nhà cho nhau.— Thương ngươi trẻ trung, có chí cao xa, gây dừng bá-nghiệp, chiếm riêng sơn hà.

Thương ngươi sức khỏe, giữ đất Ngô-Trung, Cảnh-Thăng mất vía, Tôn-sách yên lòng.— Thương ngươi đẹp giai, sánh với Tiểu-Kiều, rể tôi nhà Hán, xứng đáng trăm chiều.

Thương ngươi khí khái, ngăn việc hàng Tào, trước dù cụp cánh, rồi cũng bay cao.— Thương ngươi khôn ngoan, Tưởng-Cán đến dụ, chén rượu thảnh thơi, Tào-Man mắc mẹo.

Thương ngươi có tài văn võ kiêm toàn, hỏa-công phá giặc, chuyển nguy thành an.

Tưởng ngươi khi ấy, anh hùng ghê gớm, lệ tuôn hai hàng, thương ngươi mất sớm.— Bụng ngươi trung nghĩa, hồn ngươi anh linh, tiếng ba mươi tuổi, nghìn thu lưu danh.— Ruột ta xót xa, thương ngươi tình thiết, trăm thảm nghìn sầu, kể sao cho xiết.

Trời Ngô mịt mù, ba quân thở than, chủ thì xùi xụt, bạn cũng lệ ràn.

Lượng tôi bất tài, xin mẹo cầu mưu, giúp Ngô chống Tào, phò Hán yên Lưu.

Vẫn mong cùng ngươi, cứu giúp nhau cùng, bgười còn, kẻ mất, xót xa đau lòng.

Than ôi, Công-Cẩn, đã biệt nhau rồi, thôi nói chi nữa, thế là xong đời! Ngươi có khôn thiêng, soi thấu vi thầm, từ rầy thiên-hạ, ai kẻ tri-âm!

Than ôi! đau đớn thay! thượng hưởng.

(Trích lấy trong truyện Tam-quốc).



Văn tế thuốc phiện.
(Theo lối phú)

Trước bàn đèn ống điếu mà khóc than rằng:

Ba sinh hương hỏa, cuộc trần hoàn nào mấy mặt tri-âm;

Một phút nhàn du, nghĩa giao-tất để quên lòng quyến cố.

Nhớ ngươi xưa:

Quê ở Mãn-châu,

Qua chơi trung-thổ.

Sắc vàng tơ nhỏ, vẹn lưng ong chạy tầu, ấy chính danh là Bạch là Công;

Mình mỏng bọt to, sùi mặt quỉ sa đèn, ấy là của trên Ngâu trên Tụ.

Tính nguyên thăng tán, trừ phong hàn, quyết giật giải Hiên kỳ;

Vị hữu thanh lương, ôn tỳ vị ắt cướp công qui phụ.

Thanh giá thì hai thứ khác nhau.

Công hiệu dẫu đôi đường vẫn có.

Kìa những kẻ buôn hương bán phấn, nhờ ôn-hương mà dụ khách phồn hoa;

Bao nhiêu người kế lợi thương công, mượn tỉnh thức để tiện khi tính sổ.

Chốn quyền môn quí khách càng chen,

Đoàn võ-nữ ca-nhi cũng mộ.

Cũng có kẻ giận công danh trắc trở, bạn cùng ngươi cho khuây nợ tang bồng;

Lại có người buồn quê quán xa xôi, chơi cùng ngươi cho khuây miền vân thụ.

Đã quen hơi kiếm chác càng chăm.

Có biết thú sắm sanh mới đủ.

Mùng xuyến lỗ, rèm thêu tam hựu, nệm kim-qui, chăn cù, gối sếp, làng xa mã nghênh ngang;

Xe cam-lộ, tẩu dạng lục-lăng, bàn tê-giác, tiêm bạc, móc thần, khách tài tình ngang ngửa.

Đèn pha-lê miếng trám miếng huỳnh.

Khay vân-mẫu nhất thi nhất họa.

Năm canh những bạch thơm công nặng, tưởng đến câu « vưu vật di nhân »:

Bốn mùa đều gió mát trăng thanh, sao bằng cảnh « dương xuân triệu ngã ».

Ngọn đèn thay nhật nguyệt hai vừng.

Chiếc điếu hợp long vân mọi vẻ.

Giải khát sẵn đường phèn đường phổi, trè ô-long hương mộc thanh-kỳ;

Nhuận tràng có bánh ngọt bánh bùi, cháo yến-huyết bột đao mát mẻ.

Lúc phong lưu nghĩ cũng nên đời.

Khi nghiện ngập nghĩ ra mà sợ.

Vui anh em một khi một điếu, nếm mùi đời cho đủ thứ mà chơi;

Nào ngờ phút bén phút quen, giục lòng khách đến cơn lại nhớ.

Ho hen ngáp vặt, mặt mũi lư đừ;

Mũi xổ dạ đau, chân tay buồn bã.

Kẻ giật-khách vãng lai thù tạc, bọn hiền-nhân mặc đi sớm về trưa;

Người thường nhân su sự phó công, sợ phép nước cũng ăn không nói có.

Khăn khăn áo áo, cũng nhuộm mùi cầm,

Ruộng ruộng trâu trâu, cũng chui vào lọ.

Gái thuyền quyên nên mặt bủng da chì,

Giai tráng sĩ cũng xo vai rụt cổ.

Kìa những kẻ văn hay võ mạnh, đã mang vào còn xếp bút gác cung;

Huống chi người tài thiển trí ngu, chơi quá độ cũng vong gia thất thổ.

Bẻ gẫy chăn, chuyện cũ trắng không. Ném vỡ váy trò cười còn đó.

Rờ lưng vợ kiếm mười lăm mười tám, tìm tiệm mua thuốc sái cho qua;

Bới đầu giường không quan vắn quan dài, đến bạn xin xảm lần nuốt đỡ.

Cũng có lúc ho hen nên nghiện, thì vùng vằng đập lọ chẻ xe;

Cũng có khi bầu bạn quá vui, lại tấp tửng tiện xe khoét lọ.

Đọc thấy chữ « sát nhân vô kiếm », kẻ tri cơ đã biết phải chừa;

Xem thấy câu « trạch hữu nhi giao », bạn vô ích chơi làm chi nữa.

Rầy nhân:

Tiết tới hạ-thiên,

Tuần lâm đoàn-ngũ,

Vậy có ngọn đèn chén nước, giãi lòng thỏa với tri-âm;

Gọi là chút kính tấc thành, mời khách tìm về cố quốc. Thượng hưởng.

(Vô danh)



Viếng đám cổ chiến tràng.
(Dịch theo nguyên điệu lưu-thủy)

Lồng lộng thay, bãi cát mênh mông, bóng người vắng ngắt! Dòng nước quanh co, rặng non cao ngất! Ngọn gió lạnh lùng, bóng chiều hiu hắt! Bụi cỏ rạc khô, hơi sương rá ngắt! Chim chóc vắng teo, muông thưa lối tắt!

Có người đình-trưởng bảo ta rằng:

— Đó là bãi chiến-tràng ngày xưa, đã có khi ba quân đổ tạt đó; mỗi khi âm trời, quỉ khóc ma kêu, như mưa như gió!

Thương sót thay! nhà Tần ư? nhà Hán ư? hay là đời gần đây ư?

Ta nghe Kinh, Hàn, Tề, Ngụy, đem quân đi đường; rong ruổi muôn dặm, năm năm phơi xương. Ngựa thả bãi cỏ, đêm sang đò ngang; trời cao đất rộng, đường lối minh mang; gửi thân mũi kiếm, thổn thức gan vàng.

Ta tưởng nhưng khi gió bắc ào ào, quân Hồ lẻn đến; chủ tướng khinh địch, cửa quân khai chiến. Đồng rợp tinh kỳ song đầy tổ luyện; phép nghiêm, dạ phải hãi hùng; oai tôn, mạng thành đê tiện. Tên lọt xương sâu, cát bay mặt kín; đôi quân đánh nhau, non sông chuyển biến; thế mạnh như sấm vang, tiếng reo như sóng biển.

Lại như: Trời đông tháng rét, góc bể lạnh lùng: ngặp vế tuyết bám, đầy râu váng đông; chim khiếp ít đến, ngựa đi ngại ngùng; bông vải không ấm, nứt da rụng lông. Đương lúc trời rá rét ấy, quân Hồ kéo vào; đánh nhau dữ dội, sát khí ào ào, xe lương bị chặn, quân sĩ sôn sao; đô-úy hàng giặc, tướng quân đâu nào? Lạch lớn ngổn ngang thây trắng, hang sâu lây láng máu đào; ai sang ai hèn, cũng là xương khô một đống, nỗi thảm sầu kể xiết làm sao!

Hỡi dân xanh đầu, ai không mẹ cha; nưng niu ôm ấp, mong thọ đến già! Ai không anh em, như chân như tay; ai không vợ chồng, bầu bạn sum vầy. Sống có ai biết, chết có ai hay! Chiêm bao vơ vẩn, giọt lệ với đầy.

· · · · · · · · · · · · · · · · · · · · ·

Gọi có chén rượu, tỏ chút lòng này. Thượng hưởng.

(Cổ văn)


*

* *

   




Chú thích