Việt Hán văn khảo/II.K3
3.— VĂN-SÁCH.— Văn-sách là một bài văn vấn đáp, đầu bài hỏi làm sao thì trong văn mình phải đáp làm vậy. Lối ta xưa nay thường lấy những nhời nói hoặc là những công việc của cổ nhân cùng là một vài việc đương thời mà ra bài cho học trò đáp lại để xem học trò có nhớ sách và có kiến-thức không. Mỗi một mục văn-sách hỏi cốt-yếu về việc gì, có một câu đầu gọi là câu đề-mục. Rồi ở dưới tìm các nhời của thánh-hiền và các việc của lịch đại thuộc về câu đề-mục đó mà hỏi, cuối cùng hỏi đến một vài câu thời-sự cũng thuộc về mục ấy. Hoặc ra văn-sách đạo thì mỗi một đạo là có một đề-mục riêng. Trong một mục văn-sách hỏi độ dăm sáu đoạn là thường. Lúc mới tập chỉ hỏi một đoạn tức là văn đoạn một. Văn thi-hương thi-hội thi-đình thì tùy mỗi bực mà dài thêm ra. Học trò làm văn, cứ theo từng câu mà đáp lại. Lắm khi đầu bài hỏi lăng hỏi líu, hỏi câu nọ nhằng sang câu kia, thì làm bài phải theo thứ tự hoặc đảo lên đảo xuống mà nói gỡ dần dần từng câu, nếu đáp thiếu ý nào hoặc thừa ý nào cũng không được.
Việc thi-cử trọng nhất là văn-sách; vì phải học rộng, phải nhớ sách nhiều và phải có kiến-thức mới làm được. Xem văn-sách có thể biết được người thực-học hay là người hư-văn. Cho nên gọi là lối văn-chương hữu dụng.
Văn-sách thì có lối riêng. Văn làm mới bắt đầu, thi-hương phải có ba chữ « Đối sĩ văn » (thưa, tôi nghe), thi đình phải có 4 chữ « Thần đối thần văn » (thần xin thưa, thần nghe). Đoạn ấy phải nói lao lung cho hết ý toàn đề, rồi phải tiếp một câu « tư thừa sách vấn nhi lược trần chi » (nay vâng nhời sách hỏi mà bày tỏ qua ra sau này). Từ đó trở đi, mới theo thứ tự câu hỏi mà đáp lại. Đầu câu đáp lại phải có 2 chữ « thiết vị » (trộm nghĩ rằng), nghĩa là nói khiêm rằng trộm nghĩ mà thưa, chớ không phải đã giám quyết như thế. Cuối bài lại phải có mấy câu lề lối: « Sĩ giả, hạnh phùng thịnh thế, tòng sự văn tràng, quán kiên như tư, vị chi khả phủ, nguyện chấp sự kỳ trạch nhi tiền chi », nghĩa là tôi đây may gặp đời thịnh, theo việc văn-tràng, kiến-thức hẹp-hòi như vậy, chưa biết có phải hay không, xin quan trường coi việc kén lựa mà cất nhắc cho tôi).
Các câu lề lối ấy là luật phép riêng của quan trường, để cho nhất tề, chớ không quan hệ gì đến học-thức. Ta xưa nay hay hỏi về việc Tầu, đến việc nước nhà thì chỉ hỏi qua loa mấy việc to tát, duy có thi-đình mới hỏi nhiều hơn một chút mà thôi.
Văn-sách cũng là một lối ứng-thí, chớ không mấy khi đem làm văn chơi. Ai muốn làm chơi thì đem những câu tục ngữ ra mà hỏi mà làm cũng được.
Trích lục một đoạn văn cổ
Vấn (hỏi): tục-ngữ có câu rằng:
« Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
« Bõ công trang điểm má hồng răng đen;
« Chẳng tham ruộng cả ao liền,
« Tham về cái bút cái nghiên anh đồ ».
Phù, (ôi) anh đồ, dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm, tằng kiến ư thời nhân chi sở tiếu (từng thấy người ta cười cho), bất chi hà sở thủ nhi quyến luyến ư anh đồ ư? (không biết vì cớ gì mà thiết tha với anh đồ như thế).
Bài làm
Thưa rằng: Em là con gái, nghe nói: đương (vừa) sen ngó đào tơ, mong gập hội thanh xuân chi phải lứa; nhi (mà) giai tài gái sắc, thực là duyên cầm sắt chi tốt đôi.
Nay vâng lời sách hỏi, ý thiết nghĩ rằng:
Má đỏ hây hây, răng đen nhưng nhức, chẳng những đắm ư cô tú dì nho chi thệ, cũng chung tình ư chồng loan vợ phượng chi duyên; nhi cam ngọt với quả quít hôi, em cũng liệu ba đồng một, một đồng đôi cho phải giá... (?) Hoa đào tươi quyết không đem bán cho lái buôn, cây gỗ lim chìm, ắt chẳng để chôn làm cọc giậu.
Ruộng liền ao cả, chú nông kia chi phi nghĩa những khoe giầu; song Vương-Khải, Thạch-Sùng, đã từng đấu phú, rồi cũng trơ mắt ếch ư của đời người thế chi thu!
Nghiên ruộng bút cầy, anh đồ nọ chi đa văn không ngại khó; nhi Mãi-Thần, Mông-Chính, có lẽ tràng bần, ắt cũng giương cánh phượng ư bĩ cực thái lai chi hội!
Nông nhì sĩ nhất, lẽ ấy đã đành!
Vả, chân lấm tay bùn, nông giả nãi vô phu chi cộc kệch; dĩ yếm thắm quần là chi tha thướt, chưng ấy mà mê bồng tưởng trống, sao cho cam hạt ngọc để ngâu vầy?
Tai hiền mắt thánh, nho giả nãi quân tử chi thung dung; dĩ môi son má phấn chi nhởn nhơ, chưng ấy mà sửa túi nưng khăn, thực mấy đáng cây đồng cho phượng đậu.
Vả còn trong trần lụy, anh đồ là vị vũ chi giao long; may khoa thi mà danh chiếm bảng vàng, tức hôm nọ chi hàn nho, hôm nay đã ông cống ông nghè chi đài các! Ví em mà phận đẹp chỉ đào, thì trước voi anh, sau võng thiếp, cũng thỏa đời ư võng giá chi nghênh ngang.
Chưng thủa hàn vi, anh đồ là an sơn chi hổ báo; gặp vận thái mà ơn vua sắc báu, tức ngày xưa chi hàn sĩ, ngày nay đã quan tham quan thượng chi phong lưu! Ví em mà duyên ưa lá thắm, thì anh quan cả, thiếp hầu bà, cũng sướng kiếp ư ngựa xe chi đủng đỉnh.
Như thế thì:
Chồng quan sang, vợ hầu đẹp ai chẳng khen nhất thế chi thần tiên!
Danh phận cả, bổng lộc nhiều, thế mới thỏa tam sinh chi hương hỏa!
Dài lưng tốn vải, bây giờ đã võng đào áo gấm chi bảnh bao;
Ăn no lại nằm, bây giờ là ghế trúc giường đồng chi chỉnh chiện!
Như thế ai mà không quyến luyến ư anh đồ!
Chúng em nay vừa độ giăng tròn, gặp tuần hoa nở, dĩ yếm thắm quần hồ, vả đi vả lại, chỉ mong anh nho sĩ chi yêu đương; tiếng ong lưỡi én, uốn éo trăm chiều, cũng mặc thế gian chi mai mỉa.