Truyện Kiều (bản Trương Vĩnh Ký 1911)/Kim, Vân, Kiều tập án

Truyện Kiều của Nguyễn Du, do Trương Vĩnh Ký dịch
Kim, Vân, Kiều tập án của Nguyễn Văn Thắng

KIM, VÂN, KIỀU TẬP ÁN

Ông Nguyễn-Van-Thắng

Tham-hiệp tỉnh Thanh-Hóa


HOẠN-THƠ ÁN

Tinh-ma nhứt thứ. sâu-sắc nước đời:
Vắng mặt chồng riêng hiệp lũ côn-quang,
Miền tha cảnh cướp người buông lửa.
Bắt thứ thiếp nhận làm người mé thất,
Phen thị tì dập phấn vùi hương.
Thói hồng nhan, không mua lấy dễ-dàng.
Tiếng nghiệt-phụ, đã nên rằng độc địa.
Trên tiệc để ai cười nước mắt,
Còn là tiệc rượu, lại còn nỗi thuyền quyên.
Bên phòng xui kẻ khóc chiêm bao,
Còn bẻ tờ cung, lại còn tra nét mặt.
Tình đã phân-minh, lẽ không hồi hộ.
Tuy ghen-ghét là phụ nhơn chi thường thói,
Phép thường xét đến cũng không dung.
Mà trộm cướp là quốc điển chi nghiêm hình,
Phận gái lam quân không lẽ thứ.
Gẩm đến tình-hình thành khả ố,
So vào tội trạng bất ưng khinh.
Song mà còn chút khá ngờ,
Vậy phải cho nên chưa quyết.

Quan-âm-các thuở nhãn tiền hiện-hoạch.
Dâm đắc tích, mà thác tự vô tri.
Chiêu-ẩn-am khi gia vật khả bằng,
Đạo đắc tang, cũng tri chi bất vấn.
Ý Hoạn-thị tinh dường xem cũng khá.
Thúc-sanh vụng xử hóa xui nên.
Hoạn-thơ còn đãi án vô nghi,
Chẳng kẻo mẹ nong con là thế.
Thương Thúc-mổ chưa an dâng kế hậu.
Hãy cho chồng lãnh vợ đem về.


THÚC-SANH ÁN.

Rặt nòi tú mỡ, quen thói bốc-rời.
Việc tày trời bưng-bít giấu trong bình,
Úp lồng kín giấu voi ruộng rạ.
Kiến giò đất quanh co bò miệng chén,
Cáu tâm dư những thói trẻ ranh.
Tội khi-man đem buộc lấy vào mình.
Lời định chúc chẳng dám thò ra miệng.
Tiệc giải cấu muốn đầy hàng khoan nhặt.
Bó tay vào đều cung tửu giấu quanh.
Các viết kinh khi rơi lụy ngắn dài.
Cắn răng lại chước tại đào phất điểu.
Cũng mang tiếng là tuồng quân-tử.
Làm ô danh đến bạn đàn-bà.
Dưới gối cha làm luống dở bài-bay.
Lời si ngốc đã dơ trong danh-giáo.
Trước mặt vợ, sợ quen trưng mắt tráo.
Lúc lụy rơi thêm dại cả hình-thù.
Đả thất cơ mà thua trí đàn-bà,

Sao tự thú chằng hết lòng chị nó?
Xét trong lẽ sinh vi nam tử,
Oai khổn nội kia nghiêm đường phủ doãn.
Xem thể diện có còn ai đến thế,
Tội quá nhu ưng định nghĩ mãn xuy.
Thương vì tính tố thị lương nhàn,
Quyền tại gia là trũng tể thiên quan.
Ấy tư cơ cũng vì nó mà nên,
Thế sở bức hãy cô dung nhất thứ.
Còn như gấm trăm cuốn, bạc ngàn cân.
Tuy Thúc-mỗ chẳng công chi nên thưởng.
Song Kiều-nhi có bụng ấy cũng cho.


TỪ-HẢI ÁN.

Thao lược đủ tài, côn quyền hơn sức.
Giơ tay trắng gọi anh-hùng bốn bể,
Thét lưỡi gươm cất muôn đội tì hưu.
Thổi đất bằng rầm sóng gió một phương,
Đá chơn ngựa xô năm tòa thành-quách.
Thế hoanh-liệt quanh sông nhảy núi.
Sức tung-hoành lở đất long trời.
Cám một lời tri kỉ, giữa trần ai.
Đem vinh hiễn vẽ tươi màn phấn đại.
Nghe mấy truyện bất bình, phen lưu-lạc,
Ra oai-linh rửa sạch hận thuyền quyên,
Trong năm năm vùng-vẫy nghiệp bá vương,
Dư trăm trận ra vào tài trí dỏng.
Lời trong trướng gẩm thị phi hữu lý,

Động lương tâm thương trăm họ vô cô.
Lệnh dưới cờ truyền bộ khúc chỉnh nghi,
Giải binh bính quyết một bề qui thuận.
Ý khinh tín sơ phòng cũng phải,
Rằng đắm tình ngộ sự thời oan.
Trước thiên tải, tưởng cơ đồ còn tiếc nhớ,
Kìa nhứt thì tuy thành bại cũng anh-hùng.
Thôi hãy về tạm quản lấy ôn binh.
Rồi sẽ nghĩ tấu cho làm thống tướng.


TÚY-KIỀU ÁN.

Hiếu tình có một tài sắc gồm hai:
Hoa ghen thắm, liễu hờn xanh,
Ngọc trắng gương trong nền quốc sắc.
Cá mê vần, chim đắm khúc,
Non cao nước chảy bậc thương cung.
Giá thuyền quyên đã đáng chứa nhà vàng,
Sức tài nữ cũng nên trao thước ngọc.
Tranh thủy mạc bốn câu ba vận,
Khách chung tình rối ruột động niềm tây.
Thơ đoạn trường một vẽ mười bài,
Bạn tri kỷ giật mình nhường giải nhất.
Kiếp má phấn tới khi rơi phận bạc,
Tấm lòng son không chút thẹn vầng hồng.
Trỏ thịt xương thề trả đức sinh thành,
Nhắm mắt đưa chơn theo máy tạo.
Qua dâu bể dám ăn lời ước hẹn?
Trao tơ chắp chỉ cậy tay em.
Phận bèo mây sá quản áng phong trần.
Vừng trăng gió chẳng phải lòng thiết thạch.

Lời thần mộng gẩm xô-bồ chưa hết,
Cõi Lâm-tri đành ngọc nát vàng tan.
Nồi thơ hương vì dan-díu đã lâu,
Miền Võ-tích chịu da chì tóc rối.
Cung khốc tố giải đoàn cứu oán,
Tờ thân cung động tấm từ bi.
Các viết kinh bấm bụng nói sầu riêng,
Cam khất nhục bỡi chưa lời từ-tạ.
Đem tà nguyệt băng mình pha lối lạ,
Mắc bô đào vì gớm chước hiểm-sâu.
Cùng đàng mang nặng ngãi với Sư-già.
Túng đất phải chìu lòng cùng Vãi-bạc.
Trải mấy lượt chán-chường tràng phong nguyệt,
Buôn đi bán lại thiếu chi nơi?
Trong năm năm giật mượn sức anh-hùng,
Oán trả ơn đền rành các tích.
Tủi danh-phận xui nên lưu-lạc,
So tài tình xem cũng phân minh.
Thuở khuyến hàng mầng tưởng việc như lời.
Thương muôn họ dân lành đeo tiếng bạc.
Cơn khánh hạ bỗng thấy người lật mặt,
Đem ngàn vàng thân nặng giấu sông Tiền.
Hội đoạn trường mong thật hẹn tương tri,
Thuyền bát-nhã may nhờ tay cứu khổ.
Sum-hiệp thỏa một nhà như trước,
Ơn chàng Kim cho lấy hiếu làm trinh.
Vẻ-vang mầng hai họ hơn xưa.
Tủi phận bạc đàm soi hoa với đuốc?
Xét sau trước đủ nhàn trinh hiếu nghĩa,
Thương lâu nay lầm tuyết-nguyệt phong hoa.
Ấy, tình tùng hiếu xuất, sự thuộc vô can.
Kíp truyền hội chủ rút tên ra,

Hãy kiếp ấy quyền nghi mạng phụ.
Vã tội chuẩn công sai, lý ưng gia thưởng.
Hiệp sức nguyệt ông xe chỉ lại,
Để thân sau chánh phẩm phu nhân.


TÚY-VÂN ÁN.

Tuyết nhượng màu da, mây thua nước tóc.
Sắc chẳng kém mười phần trọn-vẹn,
Duyên lại thêm bốn bể gồm no.
Nặng vì cha chịu đựng lấy tờ-bồi.
Tơ-tóc ngập-ngừng dường biết thẹn.
Thương đến chị đền-bồi cùng non nước.
Hiển-vinh gặp-gở há rằng cầu?
Nết đoan trang xem phải khổ nữ trung.
Khuôn đầy-đặn đủ vào đồ tướng pháp.
Xét đến thuở phụ tù tỉ mại,
Cơn khống-tống dám hít-ha là thế.
Chữ vô tâm coi thấy cũng nên dường.
Xem chưng khi phu ấm thê vinh.
Nhẽ kinh quyền khéo nhường nhẩn đến đều.
Đường xử kỷ cũng là đà đáng thưởng.
Công tội bình phán, án đoạn trường miễn nghị.
Nết-na phải thói, ngôi mạng phụ gia vinh


KIM-TRỌNG ÁN.

Dòng-dõi trâm-anh, văn chương đài-các.
Bậc tài danh nền phước hậu.
Mối hồng lầu, duyên tú các thiếu chi?
Trong phong nhã ngoài hào hoa,

Sân ngọc-bội, phường kim-môn dễ mấy?
Xem đai đất đã vào dòng cụ thể.
Gẫm phong quang chưa ra vẻ lão thành.
Kẻ tấn thân mà quen thói dông-dài.
Mượn bước tầm phương đo sắc nước.
Khách hàn mặc khéo dơ tuồng ve chuốt.
Thuê hiên Lãm-túy ướm tơ đào.
Chữ phất cầu, đà lỗi với gia đình.
Đường phi thể, lại phạm vào công luận.
Xem buổi mới đã nài hoa ép liễu,
Nỗi trăng gió chẳng nể lòng đoan chính
Án điêu gian, chẳng lựa phải tra.
Gẫm khi nén còn gạn phấn tưởng hương.
Giá bếp buồng nghe thoảng tiếng thị phi.
Luật thất tự, hiện tồn khả cứ.
Xét hữu lộc cố nhứt niên sung dịch.
Niệm đa tình cố nhứt thứ tùng khinh.
Vã thương chàng, nhân ngãi đã đều, thũy chung một mực.
Gắn-vó nặng cùng lời non nước.
Nuôi hai thân thay mặt khách tình chung.
Dặn-dò hỏi lại lúc phân-ly,
Nối sợi chỉ đền lòng người mạng bạc,
Chén nguyện chứa-chan dòng nước-mắt,
Gối tình vơ-vất giấc chiêm-bao.
Mười mấy thu phong mở quạt hoa,
Những là thảm lấp sầu xây,
Nhìn khâm chẩm mơ-màng lời sơn hải.
Ngoài ngàn dặm đổi thay sứ nhạn,
Sá quản của thuê công mướn.
Gẫm đỉnh chung đau-đớn nỗi bình-bồng.
Áng phong trần nhìn thấy mặt mới cam,
Duyên thi tửu phải chìu lòng cho trọn.

Ấy tám đức cũng là tuồng quân-tử,
Tình nên thương mà đắc cách cũng ơn.
Vã văn chương đà đáng bực cao danh,
Tài cũng tiếc xả khí hà trạc dụng.


ĐẠM-TIÊN ÁN

Già nỗi một đời, tiếng bay bốn bể.
Hương một nén cũng cám lòng tri ngộ.
Mơ-màng hồn quế tỉnh dường mê.
Thơ mười đem thử sức sơ giao,
Ngần-ngại chơn giày đi lại đứng.
Nên tài sắc đã mỉa chìu quyền quới,
Miền phong hoa mà thấy dạ thủy chung.
Chốn thanh lâu đem túc trái bảo thầm,
Một lời trót đã hẹn-hò.
Nào tiếc sức ngoài mười năm chong bóng?
Áng minh phủ thuở tiền khiên phô trắng,
Hai ngã dầu khôn dan-díu,
Cũng có công chờ ngàn dặm đưa tin.
Nghiệm giao tình trọn-vẹn nên thương,
Xét nghiệp chướng đọa-đày cũng xót.
Phạt một lẽ hững-hờ cùng viễn khách,
Phụ chăng phụ, do nghi ư lý,
Vậy thân nầy quyền ủy nguyệt hoa thần.
Như những đều vất-vả với tri âm,
Tình nên tình diệc túc vi công,
Chờ kiếp khác gia phong cung các nữ.

VƯƠNG-VIÊN-NGOẠI ÁN.

Thương tình tuổi-tác, giữ phận hiền-lành.
Kẻ vô tri lây vạ gió khôn kêu,
Khiếp dạ đã đến đều khánh kiệt.
Cơn hữu sự gặp túi tham còn nhẹ,
Cùng đàng cho nên nỗi biệt-ly.
Tuy ngày sau đà mầng phận rể-con.
Nhưng oán ấy cũng nên gia phú quí.


VƯƠNG-QUAN ÁN

Quả người lương thiện, thiệt dạ thủy chung:
Chốn tụng đình giục Chung lão sở mưu,
Hết tư sản cũng không lòng oán hận.
Phen hoàng bảng lấy kim gia làm bạn,
Kết hôn nhơn cho trọn nghĩa thủy chung.
Xét tên nầy tuy cạnh góc chửa tròn.
Soi dạ ấy cũng nên gia phước lộc.


THÚC-CHÁNH-ÔNG ÁN

Khéo đường buôn-bán, vụng nỗi ở-ăn.
Bề khuyên răn không sớm thuở còn thơ,
Miền hàng chợ để hư thân lêu-lỏng.
Duyên gặp-gỡ tới khi tình đã nặng,
Chốn quan tư đem lại việc quàng-xuyên.
Sao chẳng suy kiện cáo ích gì.

Mà nở để tiếng-tăm là thế?
Xét đến lẽ xử gia giáo tử,
Tội bất nghiêm ưng định trượng tám mươi.
Thương vì tình chất phát niên cao,
Luật chuẩn thục hứa nạp ngàn tứ lượng.


TỀ TRI PHỦ ÁN

Lồng gương minh-mẫn, mặt sắt đoan-trang.
Thấy lá đơn Thúc-lão đã dơ tuồng,
Phụ khống tử tới quan không lẽ bát.
Tra đến mặt Thúc sinh mà phá lẽ,
Công chế tư mở lý tháo bài hòa.
Gẫm ngôn từ đáng thể lượng đại thần,
Xét khóa tích gia phẩm-trật ngự sữ.


ĐỒ LÃO LẠI ÁN

Nhớ dai nhứt thứ, nói khéo dầu dây l
Ngoài phố-phường sự-tích đã mười năm,
Nhỏ nhặt tóc-tơ tình chẳng lẩn.
Trước quan lại ngôn từ thông một mạch,
Đầu đuôi phải chẳng truyện như in.
Xét tên nầy chừng đã cao niên,
Xem tài khí cũng nên đại dụng.
Trộm nghĩ người làm báu nước.
Gẫm tên nầy nên hộ vụ thí tài.
Trông lịnh trên thánh mở khoa dời.
Chuẩn khoản ấy hạ lại tào tham nghị.

HOẠN A GIA ÁN.

Tính hạnh ngay lành, nết na nhẹ-nhuyễn.
Tinh con mắt biết kẻ khinh người trọng,
Lời hiếu sinh tường kẻ tóc chơn tơ.
Rộng lòng thương khi thang thuốc chén trà,
Đều phương tiện dặm đường ăn nỗi ở.
Nay tiên thưởng ngàn vàng âu cũng phải,
Chờ tài sanh ngũ phước sẽ phê cho.


GIÁC-DUYÊN ÁN.

Nhơn nghĩa đủ đường, tu hành phải đạo!
Lời đàn việt hở ra nghe cũng gớm,
Cửa từ-bi lừa lối gởi ân tình.
Số tiên cung dẫn lại thấy mà mầng,
Thuyền tế độ giăng sông chờ phước đức.
Ơn nghĩa ấy trã ngàn vàng cũng phải,
Công quả kia ngồi thập điện cũng nên.


THẰNG BÁN-TƠ ÁN.

Giả danh thương mãi, vốn đảng côn-quang.
Thú giang hồ quen lệ đó đây,
Soát hộ tịch đã toàn vô danh quán.
Miền thôn dã nảy nghề buôn-chuốt,
Đáo quan tư đà cụ thổ tình-hình.
Tội trạng hiển nhiên, gian tang cụ tại.

Thấy viên ngoại ngu tình khả hách.
Trong nhà trông áng đủ làm ăn.
Nghe nha môn liệt chứng tiêu rơi,
Vào phép đua nhau cùng kiếm chác.
Ấy đáo án đã cung chiêu bất húy.
Mà cư tù còn hãm-hại vô cô.
Chiếu cường phạm đắc tài luật khoa hình,
Giao cai hạt áp pháp trường kiên trảm.


ĐỀ LẠI CHUNG ÁN.

Nhơ thói ruồi xanh, pha nòi cò trắng.
Như Vương-lão quả tình nên thứ tội,
Vã văn lý cũng trong tay mực thước.
Can gì không xét lẽ rõ oan.
Thấy Kiều-nhi còn thế bán ra tiền,
Giả từ tâm mà lựa khóc lưới-chài.
Lẽ đâu có đút đây lòn đó.
Người hữu lộc chẳng bỉnh công thủ pháp,
Ăn đã no còn có sự cô ân.
Bạc tham tang ba trăm lượng tỏ-tường,
Chiếu quốc luật đã dư trong nhất tử.
Người hiếu nữ mười lăm năm đày-đọa,
Luận âm công ưng phạt cập tam sinh.
Trước cho đoàn chúng thấy giựt mình,
Sau để bàng quan trông sướng mắt.


MÃ-GIÁM-SANH, TÚ-BÀ ÁN.

Chung lưng hương phấn, mở phố nguyệt hoa.
Một đứa là bợm xác gặp hồi đen,

Quen tuồng cũ kiếm ăn lập nghiệp.
Một con là đĩ già đà hết lộc,
Chác nghề riêng chăm-chút sinh nhai.
Mạt cưa mướp đắng, vui phận xác xương.
Vỏ lựu máu gà, quen bề truyền miệng,
Mượn tiếng lấy ngàn vàng mua giá ngọc,
Cho con ong mở lối đóa trà mi.
Cố tình đem bác nghệ phá lòng son,
Thuê thằng khoái bẻ khóa buồng ngưng bích.
Chẳng thương đến vàng phai ngọc nát,
Nỡ làm cho bướm chán ong chường.
Xét tên kia quả lãn tích côn đồ,
Phân minh vô nghĩa bất nhơn,
Thẻ yêu trảm phú pháp trường thị chúng.
Trà mụ nọ thị Tú-bà bổn sắc,
Đích xác hiếp lương vi kỉ,
Tội phân thây giao ngũ mã tư hình.


SỞ-KHANH ÁN

Vốn phường xỏ lá, quen thói lừa hoa.
Sấn một tay giún mấy đóa phù dung,
Chứng Mã-kiều khai đã phân minh.
Lật mặt xấp mày tình đã hiển.
Tham ba hốt hại chiếc thân bồ liễu,
Tờ tích việt hiện tồn tự tích,
Vò hồng giày tía tội khôn tha.
Cứ án biên đắc tài luật khoa hình.
Nghĩ cái phận trảm giam hậu đãi thẫm.

BẠC-HẠNH, BẠC-BÀ ÁN.

Một ổ bợm già, vốn nghề hàng viện.
Mầng được khách son phai phấn lợt,
Tìm đường hung-hiểm ép tơ đào.
Dòm-dỏi khuôn vốn một lời mười,
Lập chước đảo-điên tranh mặt bạc.
Án từ đích xác, tang vật hiển nhiên.
Đứa mụ dầu mà lấy sáu mươi quan,
Tình khả ố gia giảo giam hậu.
Thằng buôn sông kể đà hai mươi hốt,
Tội nan dung ưng nghị trảm kiêu.


HOẠN-PHU-NHÂN ÁN.

Nhờ đức ấm phong, chánh ngôi mạng phụ.
Bề thảo ngay lẽ lấy mình làm trước,
Lập nghiêm cho chính chốn quê môn.
Đặng ở-ăn không đễ đức cho con,
Lưu tệ nỡ hư nền phước lộc.
Sao không nghĩ phước đức tại mẫu,
Mà nỡ đem bạc-ác giáo nhi?
Chìu con mà hội đảng chỉnh thuyền.
Ngàn dặm dám buông-tuồng việc dữ.
Dự lộc nước mà ỷ quyền lộng phép.
Tấc giang không khiếp-sợ oai trời.
Nỗi xử tàm quả thật kẻ đa-đoan,
Cơn đào án tầm phương thoát võng.
Chờ tróc hoạch đích thân, sẻ án luật trị tội.

THẰNG-KHUYỂN, THẰNG-ƯNG ÁN.

Dạ vượn lòng hươu, đầu trâu mặt khỉ.
Tra đến lẽ thuyền-bè riêng vượt bể,
Bắt người buông lữa há rằng oan?
Thương vì tình cơm áo nặng vào mình,
Giày lạnh xông than nên phải khó.
Tuy biết tứ hành là phạm pháp,
Song mà sở mạng dám từ nan.
Chiếu vi tùng phát phối viễn vi nô
Chờ hiệu lực hứa hồi dân sinh nghiệp.


HỒ-TÔNG-HIẾN ÁN.

Cảm quyền phủ tiện, mang tiếng kinh luân.
Trải mấy phen xô-xát đã kinh hơi.
Chực thế tháo lui khôn chống sức.
Nhờ được lúc hẫng-hờ ra rước sứ.
Đánh kẻ chạy lại lấy làm công.
Lượng bất nhân không thẹn tiếng đến triều,
Cống tự đại những khoe ran với chúng.
Khi quá chén vuốt râu khoe trí cả.
Trông mặt trưng trào gẫm mà nhơ;
Lúc mê đờn gục mặt động niềm riêng.
Nói tiếng giọng ve nghe cũng lảu.
Công ấy tội nầy vầng thỉnh nghị,
Gươm kia ấn nọ hãy quyền thâu.
Rày nhơn thu thẩm giái ký,
Vâng cụ án văn trình nghị.

KIM, VÂN, KIỀU, TẬP ÁN

CHUNG.