2) Lưu-liên ở cung tỵ, thuộc thủy;
3) Tốc-hỉ ở cung ngọ, thuộc hỏa;
4) Xích-khẩu ở cung mùi, thuộc kim;
5) Tiểu-cát ở cung tý, thuộc mộc;
6) Không-vong ở cung sửu, thuộc thổ.
Phép này trước hết xem giờ gì, ngày tháng gì, rồi bắt đầu ở cung Đại-an khởi tháng giêng, tính theo sáu đốt trên này cho đến tháng xem quẻ, rồi lại tự cung ấy mà khởi ngày mồng một tính cho đến ngày xem quẻ; rồi lại tự cung ấy mà khởi giờ tý tính cho đến giờ xem quẻ. Giờ xem quẻ trúng vào cung nào thì cứ xem bài thơ đã giải sẵn ở cung ấy mà đoán việc mình, hoặc suy lẽ ngũ hành sinh khắc mà đoán.
Thí dụ: giờ thìn ngày mồng 5 tháng 3 xem quẻ thì kể tháng giêng từ cung Đại-an, tính theo cung ấy, tháng hai là cung Lưu-liên, tháng ba là cung Tốc-hỉ. Rồi lại tự cung Tốc hỉ khởi mồng một, thì mồng hai là cung Xích-khẩu, mồng ba là cung Tiểu-cát, tinh mãi đến mồng năm là cung Đại-an. Rồi lại tự cung Đại-an khởi giờ tý, tính theo giờ sửu là cung Tốc-hỉ, giờ dần là cung Xích khẩu, tính mãi đến giờ thìn thì là cung Tiểu cát. Bấy giờ cứ xem bài thơ trong cung Tiểu-cát mà đoán.
Mấy bài thơ đoán sẵn đại khái như sau này:
Đại-an nhiều việc hay, cầu tài tốt, tật bịnh khỏi, người đi xa chưa về. Lưu-liên việc gì cũng khó xong, mất của phải tìm phương nam mới thấy, lại phải phòng có việc miệng