Trang:Viet Nam phong tuc.pdf/167

Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.
168
VIỆT-NAM PHONG-TỤC
 

tráng đem ra, gọi là thế lính. Nhà nước xem xét rồi, hoặc cho vào lính khố xanh, hoặc cho vào lính khố đỏ, hoặc lính thủy, lính bộ, lính cơ, lính lệ, v.v... Việc ấy quyền ở nhà nước.

Kén lính thì phải kén lấy con nhà đa đinh, chớ nhà nào độc đinh thì thôi. Mỗi tên lính trừ ra lương bổng của nhà nước chi cấp, còn ở làng lệ được ăn ba mẫu ruộng công. Hoặc làng nào không có ruộng thì phải cấp tiền công, nhiều ít tùy tục riêng, nhưng không được quá 250 quan tiền kẽm một năm. Có làng chỉ cấp tiền cho một lần, có làng để riêng ra mấy mẫu ruộng công, bao nhiêu lính trong làng cũng ăn chung ở đấy mà thôi.

Hạn đi lính hoặc sáu năm, hoặc mười năm, hoặc mười lăm năm tùy lệ định của nhà nước. Số cấp tiền cấp ruộng của làng, chỉ khi đương tại lính mới được ăn, hễ mãn hạn về lính, hoặc chết đi, hoặc đăng thêm khóa cũng không được ăn nữa.

Khi lính đương tại ngũ, được phép miễn trừ hết sưu dịch và lại được miễn trừ cho một người thân nhân.

Binh lính về làng, có nơi được dự theo hàng quan viên miễn trừ tạp dịch, có nơi thì lại hoàn dân đinh.

Mãn khóa lính về làng, trừ ra người đóng cai, đóng đội trở lên còn ai ai cũng gọi cậu bếp. Tiếng bếp do từ đời nhà Trần, mỗi năm người là một ngũ thì có một người làm hỏa đầu để coi việc thổi nấu cho lính ăn, cho nên gọi là bếp.

Về vùng quê hương, khi trước bao nhiêu lính tân