Tháng chín năm ấy, Chất Tri sai người sang xin hòa. Qua tháng mười thì Nguyễn tri Phương, Doãn Uẩn và Chất Tri ký tờ hòa-ước ở nhà hội-quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn tri Phương rút quân về đóng ở Trấn-tây, đợi quân Tiêm thi-hành những điều ước đã định.
Tháng chạp năm bính-ngọ (1846), Nặc ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm-vật sang triều-cống.
Tháng hai năm đinh-vị (1847) là năm Thiệu-trị thứ bảy, Triều-đình phong cho Nặc ông Đôn làm Cao-miên quốc-vương và phong cho Mỹ-lâm quận-chúa làm Cao-miên quận-chúa. Lại xuống chiếu truyền cho quân thứ ở Trấn-tây rút về An-giang.
Từ đó nước Chân-lạp lại có vua, và việc ở phía nam mới được yên vậy.
4. VIỆC GIAO-THIỆP VỚI NƯỚC PHÁP. Từ khi vua Hiến-tổ lên trị-vì, thì sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít. Nhưng mà triều-đình vẫn ghét đạo, mà những giáo-sĩ ngoại quốc vẫn còn giam cả ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung-tá nước Pháp tên là Favin Lévêque coi tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Đà-nẵng xin cho năm người giáo-sĩ được tha.
Qua năm ất-tị (1845) là năm Thiệu-trị thứ năm có một giám-mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Bấy giờ có người quản tàu Mỹ-lợi-kiên ở Đà-nẵng xin mãi không được, mới báo tin cho hải quân thiếu-tướng nước Pháp là Cécile biết. Thiếu-tướng sai quân đem chiếc tàu Alemène vào Đà-nẵng lĩnh giám-mục ra.
Năm đinh-vị (1847) quan nước Pháp được tin rằng ở Huế không còn giáo-sĩ phải giam nữa, mới sai đại-tá De Lapierre và trung-tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà-nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới.
Lúc hai bên còn đang thương-nghị về việc ấy, thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta ra đóng gần tàu của Pháp,