Thuế đinh thì lệ định: từ Nghệ-an ra đến nội ngoại Thanh-hóa, mỗi suất đồng niên phải chịu:
Thuế thân |
1 quan 2 tiền | |
Mân tiền |
1 tiền | |
Cước mễ |
2 bát |
5 nội trấn Bắc-thành và phủ Phụng-thiên[1], mỗi suất đinh đồng niên phải chịu :
Thuế thân |
1 quan 2 tiền | |
Mân tiền |
1 tiền | |
Điệu tiền (tạp dịch) |
6 tiền | |
Cước mễ |
2 bát |
6 ngoại-trấn Bắc-thành, mỗi suất đinh đồng niên phải chịu :
Thuế thân |
6 tiền | |
Mân tiền |
1 tiền | |
Điệu tiền |
3 tiền | |
Cước mễ |
1 bát |
Lệ giảm thuế. Thuế-lệ tuy định như vậy, nhưng năm nào ở đâu mất mùa, như là bị hoàng trùng, đại hạn hay là nước lụt, v. v. thì nhà nước chiếu theo sự thiệt-hại nhiều ít mà giảm thuế cho dân. Lúa 10 phần thiệt-hại tới 4 phần thì khoan giảm cho hai phần thuế; thiệt-hại 5 phần thì giảm cho 3; thiệt-hại 6 phần thì giảm cho 4; thiệt-hại 7 phần thì giảm cho 5; thiệt-hại 8 phần thì giảm cho 6; thiệt-hại 9 phần thì giảm cho 7; thiệt-hại hết cả thì giảm cả. Hoặc nhà nước có lấy dân đinh đi làm đường, đào sông, xây thành v. v. thì cũng được giảm thuế.
Vụ thuế. Nhà vua lại tùy từng địa-phương mà định vụ thuế. Từ Quảng-bình đến Bình-thuận cứ mỗi năm một vụ thu thuế, khởi đầu từ tháng 4 đến tháng 7 thì hết. Từ Nghệ-an ra đến Thanh-hóa ngoại, cùng các trấn ở Bắc-thành,
- ▲ Tức là phủ Hoài-đức bây giờ.