Ngoài lục-bộ lại có Đô-sát-viện 都 察 院 để giữ việc can-gián vua, và đàn-hạch các quan. Cấp sự trung 給 事 中 các khoa và giám-sát-ngự-sử 監 察 御 史 các đạo, đều thống-thuộc về viện ấy. Trong viện có tả hữu đô-ngự-sử và tả hữu phó đô-ngự-sử đứng đầu.
Bấy giờ vua Thế-tổ lại đặt ra Tào-chính 曹 政 để coi việc vận-tải cùng là thuế-má tàu-bè. Có quan Tào-chính-sứ 曹 正 使 và Tào-phó-sứ 曹 副 使 làm đầu.
Các địa-phương thì lúc bấy giờ từ nam chí bắc chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh-hóa ngoại (tức là Ninh-bình bây giờ) trở ra, gọi là Bắc-thành 北 城, thống cả 11 trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn-nam-thượng 山 南 上, Sơn-nam-hạ 山 南 下, Sơn-tây 山 西, Kinh-bắc 京 北, và Hải-dương 海 陽; 6 ngoại trấn: Tuyên-quang 宣 光, Hưng-hóa 興 化, Cao-bằng 高 平, Lạng-sơn 諒 山, Thái-nguyên 太 原, Quảng-yên 廣 安. Từ Bình-thuận trở vào gọi là Gia-định thành 嘉 定 城, thống cả 5 trấn: Phiên-an 藩 安 (địa hạt Gia-định), Biên-hòa 邊 和, Vĩnh-thanh 永 清 (tức là Vĩnh-long và An-giang), Vĩnh-tường và Hà-tiên 河 僊.
Còn ở quãng giữa nước, thì đặt Thanh-hóa trấn 清 化 鎮 (gồm cả Thanh-hóa nội, Thanh-hóa ngoại), Nghệ-an trấn 乂 安 鎮, Quảng-nghĩa trấn 廣 義 鎮, Bình-định trấn 平 定 鎮, Phú-yên trấn 富 安 鎮, Bình-hòa trấn 平 和 鎮 (tức là Khánh-hòa) và Bình-thuận trấn 平 順 鎮. Đất Kinh-kỳ thống bốn doanh là: Trực-lệ Quảng-đức doanh 直 隸 廣 德 營 (tức là Thừa-thiên bây giờ), Quảng-trị doanh, Quảng-bình doanh 廣 平 營, Quảng-nam doanh 廣 南 營.
Ở Bắc-thành và Gia-định thành đều đặt chức tổng-trấn 總 鎮, và phó tổng-trấn, để coi mọi việc. Ở các trấn thì đặt quan lưu-trấn 留 鎮 hay là quan trấn-thủ 鎮 守, quan cai-bạ và quan ký-lục để coi việc cai-trị trong trấn.
Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức tri-phủ, tri-huyện, tri-châu để coi việc cai-trị.
Những trấn ở Nghệ-an, Thanh-hóa và 5 nội trấn ở Bắc-thành, thì dùng những quan cựu-thần nhà Lê làm quan cai-