hai mảnh: họ Nguyễn giữ xứ Nam, họ Trịnh giữ xứ Bắc, mỗi họ chiếm-giữ một xứ để làm cơ-nghiệp riêng của mình. Từ đó giang-sơn chia rẽ, Nam Bắc phân-tranh, ấy là một thời-đại riêng trong lịch-sử nước ta vậy.
Nhà Hậu-Lê 後 黎 từ khi trung-hưng lên, con-cháu vẫn giữ ngôi làm vua, nhưng quyền chính-trị ở cả họ Trịnh 鄭. Còn ở phía nam thì từ sông Linh-giang trở vào là cơ-nghiệp của họ Nguyễn 阮. Tuy vậy, hai họ chỉ xưng chúa, chứ không xưng vua, và bề ngoài vẫn tôn-phù nhà Lê. Sau này ta hãy chép tóm cả các đời vua và các đời chúa để cho rõ sự kế truyền. Còn những công-việc về thời bấy giờ thì ta sẽ bàn riêng ra từng mục cho rõ-ràng.
I. NAM TRIỀU BẮC TRIỀU
NAM-TRIỀU 南 朝 LÊ TRANG-TÔNG 莊 宗 (1533-1548) Trang-tông húy là Duy-Ninh 維 寧 con rốt vua Chiêu-tông. Ông Nguyễn Kim 阮 淦 lập ngài lên làm vua ở đất Cầm-châu (Lào), sau đưa ngài về Thanh-hóa, lập hành-điện ở Vạn-lại 萬 賴. Trang-tông làm vua được 16 năm, thọ 31 tuổi. LÊ TRUNG-TÔNG 黎 中 宗 (1548-1556) Trung-tông húy là Duy-Huyên 維 暄, con vua Trang-tông. Ngài làm vua được 8 năm, thọ 28 tuổi. |
BẮC-TRIỀU 北 朝 THÁI-TỔ MẠC ĐĂNG DUNG THÁI-TÔNG MẠC ĐĂNG DOANH Nhà Lê trung-hưng lên ở Thanh-hóa. HIẾN-TÔNG MẠC PHÚC HẢI TUYÊN-TÔNG MẠC PHÚC NGUYÊN |