Trang:Viet Nam Su Luoc 2.pdf/205

(Đổi hướng từ Trang:Viet Nam Su Luoc.djvu/205)
Trang này đã được hiệu đính, nhưng cần phải được phê chuẩn.

rằng: « Các làng ở ngoài Bắc-thành nhiều kẻ hào-cường trái phép, mà dân thì biếng-nhác chỉ cờ-bạc rượu-chè; việc tế-lễ quỉ-thần thì hay dùng cách xa-xỉ, việc táng-tế thì chuộng đường xa-hoa, thậm chí có kẻ bán sạch cửa-nhà cơ-nghiệp để đền nợ miệng, thực là trái với nghĩa tương bảo tương lân ».

Vua Thánh-tổ bèn xuống chiếu trách-cứ các quan địa-phương phải đem những điều huấn-dụ đã ban ra trước mà khuyên-bảo dân-sự, và phải chuyển sức cho tổng-lý: hễ thấy ai biếng-nhác rong chơi cờ-bạc rượu-chè, thì phải cấm chỉ đi. Những kẻ hào-cường trong làng mà ỷ thế hống-hách điêu-toa kiện-tụng, chống cưỡng với quan trên, dậm dọa kẻ bình-dân, thì phải theo phép mà trừng-trị. Còn những lệ thờ thần và lễ tang-tế thì Lễ-bộ đã định ra phép-tắc, hễ ai không tuân theo thì phải tội.

13. NHÀ DƯỠNG TẾ. Không những là vua Thánh-tổ chỉ lo việc dạy dân mà thôi, ngài lại thương đến những kẻ nghèo-khổ, vậy nên ngài truyền cho các quan ở các trấn ngoài Bắc-thành được quyền lấy tiền kho mà lập một sở dưỡng tế: hễ những kẻ quan-quả, cô-độc, và kẻ tàn-tật không có nơi nương-nhờ, phải đến ở đó, thì mỗi ngày cấp cho mỗi tên 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo.

14. VIỆC ĐINH-ĐIỀN VÀ THUẾ-MÁ. Thuế đinh và thuế điền thì đại khái cũng theo như đời vua Thế-tổ đã định. Chỉ có năm bính-thân (1836) là năm Minh-mệnh thứ 17, đất Nam-kỳ đạc điền xong, tính ra được hơn 630.075 mẫu và định lại các thứ thuế điền-thổ ở miền ấy. Còn như số dân đinh và điền-thổ trong nước, thì cứ theo sổ bộ tổng cộng lại được 970.516 suất đinh và 4.063.892 mẫu ruộng và đất.

Những dân Tàu sang thành lập hương-ấp ở nước Nam ta gọi là Minh-hương 明 鄉, thì có lệnh mỗi người đồng niên phải nộp hai lạng bạc và được trừ giao-dịch. Những người lão hạng và tàn-tật thì phải chịu một nửa.

Còn những người nhà Thanh sang buôn-bán ở nước Nam, phàm người nào mà có vật-lực thì đồng niên phải